Trong suy tưởng của mỗi thần học gia,
đều có những con đường khác nhau để tìm đến Thiên Chúa. Nhưng có chung một sự
gặp gỡ là tìm mối tương giáo giữa con người và Thiên Chúa. Ở giữa hai lãnh vực
con người và Thiên Chúa là một khoảng không bao la để cho các nhà thần học tìm
kiếm và làm cho khoảng cách đó gần lại với nhau. Trong thụ tạo có Thiên Chúa và
Thiên Chúa có trong thụ tạo. Cả hai kết hợp làm một với nhau trong cùng một
dòng suy tưởng để mỗi người có những cách tìm đến Thiên Chúa cách nhanh nhất.
Qua St Toma và Bonnaventura ta thấy được mỗi người có cách nhìn khác nhau khi
sử dụng “lý trí” để nói về Thiên Chúa và giúp con người nhận ra cùng đích của
mình. Trước khi đi vào chi tiết của những dòng suy tưởng của hai Thánh nhân, Ta
cùng nhau tìm hiểu đôi chút về cuộc đời của hai Thánh nhân.
A/ Cuộc đời Thánh Toma
Thánh Thomas
Aquinas chào đời vào khoảng cuối năm 1224 đầu năm 1225, tại Roccasecca, gần
Naples. Ông xuất thân trong một gia đình quyền quý. Cha ông làm thẩm phán ở
Aquino. Thời thiếu thời, ông được giáo dục ở đan viện Monte Cassino. Từ năm
1239 đến năm 1243 ông tiếp tục học tại khoa nhân văn thuộc đại học Paris. Vào
năm 1244 ông gia nhập Dòng Thánh Đa Minh, ngược với ý muốn của gia đình. Ông đã
học ở Paris từ năm 1245, dưới sự hướng dẫn của Albert the Great tức là Anbeto
Cả. Ông là học trò của Anbeto Cả tại đại học Cologne từ năm 1248-1252. Năm 1252
Toma lại đến Paris và bắt đầu một khóa học 4 năm về chú giải và giảng dậy các
Luận Đề của Peter Lombard. Năm 1257 ông được công nhận là giáo sư đại học Paris
và giảng dạy ở đó cho đến cuối niên khóa 1259. Sau đó, Ông trở về ý và giảng
dậy ở Orivieto, Rome và Vierbo. Năm 1269 ông trở về Paris và giảng dạy ở đó
trong tư cách là giáo sư đại học. Năm 1272 ông chuyển đến Naples để mở một học
viện Đa Minh tại đại học Naples. Năm 1273 ông ngừng giảng dạy để viết lách. Vào
tháng 2 / 1274 ông đi dự Công Đồng Chung Lyon. Tuy nhiên, tại đan viện
Fossanuova, ngay phía bắc thành phố Naples, ông lâm bệnh ngặt nghèo và đã qua
đời tại đó.
Anbeto Cả thành
Cologne, người đã dốc hết tâm huyết để dịch các tác phẩm của Aristote và truyền
thống thần học Kito giáo. Những bài chú giải của ông về tác phẩm Aristote rất
quan trọng, được viết bằng tiếng Latinh. Chỉ trình bày hiểu biết của mình về
quan điểm của Aristote. Toma là học trò của Anbeto Cả nên ông đã truyền cảm
hứng cho Toma trong sự hòa hợp truyền thống thần học Kito giáo theo quan điểm
của Augustino và tư tưởng của Aristote. Chính vì vậy, trong Bộ Tổng Luận Thần
Học của Toma có 39 đề mục tham chiếu của St Augustino và 35 đề mục tham chiếu
Aristote.
B/ Cuộc đời Thánh
Bonnaventura
Chúng ta không
biết nhiều về thời thơ ấu của thánh nhân. Ngài sinh tại Babnoregio, gần
Orvieto, Italia. Có nhiều tranh cãi về cuộc đời của Ngài Nhưng phần lớn cho
rằng Ngài chào đời khoảng năm 1217. Ngài bắt đầu theo học cứ nhân vưn chương
tại đại học Paris vào khoảng năm 1235. Thánh nhân hoàn tất chương trình tú tài
Kinh Thánh vào năm 1248 và dạy Kinh Thánh trong khoảng 2 năm đó. Trong khoảng
năm 1250 – 1252, Thánh nhân cho ra đời tác phẩm Chú giải các luận đề của Peter
Lombard. Sau đó ít lâu Ngài nhận bằng tiến sĩ thần học. Ngài làm giám đốc học
vụ tại đại học Phan sinh ở Paris từ năm 1254-1257. Một điểm rất quan trọng lúc
này Ngài là đồng nghiệp của Thánh Toma. Năm 1257 Ngài rời Paris cùng với chức
cụ giáo đốc học vụ để phục vụ Hội Dòng trong tư cách là Tổng Phục Vụ thứ 7 của
Anh Em Hèn Mọn. Sau những lần xung đột với anh em thì năm 1259 Ngài rút lên núi
La Verna thanh vắng là nơi Phanxico đã được in Năm Dấu, để dắm mình sau trong
thế giới thiêng liêng của Đấng Sáng Lập. Tháng 5 / 1273, Đức Giao Hoàng Gregory
X chỉ định Ngài lên chức Hồng Y. Sau đó cùng với Đức Giao Hoàng đi tới Lyon để
chuổn bị cho công đồng Lyon II sẽ được triệu tập vào tháng 5 / 1274. Chỉ 2 ngày
trước khi Công Đồng bế mạc thì Ngài qua đời vào Chúa Nhật ngày 15 / 7 / 1274.
I/ Giống nhau:
Cả hai đã từng là
đồng nghiệp của nhau trong cương vị giám đốc học vụ. Cả hai đều có cái nhìn về
triết học của Aristotle vào thần học một cách có phê phán. Cả hai đều nhận định
không thể tách triết học và thần học cách riêng lẻ nhưng là sự bổ trợ cho nhau.
Triết học kết nối với thần học và nhờ thần học mà triết học phát huy hết tiềm
năng đích thực của mình. Cả hai đều có cái nhìn về giới hạn của lý trí trong nỗ
lực tiến tới chân lý, bởi vì chân lý chỉ được tìm thấy trọn vẹn trong Thiên
Chúa mà thôi. Cả hai đều mong muốn có sự hợp nhất giữa đức tin và lý trí. Mục
đích của thần học là sự kết hợp giữa tri thức và người tri thức, giúp con người
đi từ tiềm thể đến hiện thể của mình. Cả hai đều quan niệm chỉ có mạc khải nơi
Thiên Chúa thì con người mới biết cách trọn vẹn nhất.
II/ Khác nhau:
1/ Vai trò của “lý trí”
trong suy tư thần học của St Toma:
St Toma đề cao vai trò của lý trí trong
con người. St Toma đã sử dụng ngũ đạo để chứng minh có Thiên Chúa. Lý trí là
khả năng Thiên Chúa ban cho con người để con người khám phá ra những chân lý
thực tại nơi thụ tạo. Ngài cho rằng mọi nhận
thức phải bắt đầu từ kinh nghiệm về đối tượng khả giác thay vì bằng các ý niệm
bẩm sinh về sự hoàn hảo. Đặc tính chính của đối tượng khả giác là sự tồn tại
của chúng, đòi hỏi phải có nguyên nhân của nó. Dưới ánh sáng tự nhiên của lý
trí, trí khôn biết được khi kinh nghiệm các biến cố, hậu quả phải có nguyên
nhân, vì không có gì đến từ hư vô. Đối với Ngài “lý trí” không giúp đức
tin nhận ra cùng đích của con người nhưng “lý trí” giúp cho đức tin có sự hiểu
biết rồi mới tin. Theo Ngài “lý trí” hướng về Thiên Chúa là cùng đích của sự
việc. Lý trí đóng vai trò là tiền sảnh, là nền tảng cho một vấn đề nào đó khi
nó xuất hiện. Khi một sự vật hiện hữu thì lý trí không chỉ tin một cách mờ
quáng, nhưng lý trí tìm về cùng đích của mình là cái gì đã làm nên sự vật này
và làm cho nó hiện hữu. Ngoài lý trí ra không có điều gì nhận biết Thiên Chúa
hiện hữu. Lý trí là nền tảng của đức tin, nền tảng của thần học. Mục đích của
St Toma là giúp con người hiểu về Thiên Chúa là Đấng như thế nào rồi mới dẫn
đến một niềm tin sắc đáng chứ không tin một cách mu mơ. Theo quan niệm của St
Toma Triết học và thần học không có sự đối chọi nhau, kình địch nhau nhưng
triết học và thần học có sự bổ trợ cho nhau và giúp nhau khám phá ra cùng đích
niềm tin của mình. Ngài cho rằng: Nữ tỳ là triết học và Bà Hoàng là thần học.
2/ Vai trò của “lý trí”
trong suy tư thần học của St Bonnaventura:
Bonnaventura ảnh hưởng bởi ba nguồn tư
tưởng là Augustino, Dionysivs và Phanxico. Nên phần nào cũng chịu ảnh hưởng tới
tư tưởng của St Bonnaventura. Cũng như St Augustino là tin để hiểu thì St
Bonnaventura cũng bắt đầu bằng đức tin, xác tín rằng Đức Kito, Ngôi Lời Hằng
Sống của Thiên Chúa là mặc khải trọn vẹn nhất mà Thiên Chúa ban cho thế giới,
vì thế con người chỉ có thể tìm thấy chân lý nơi Đức Kito. Từ chân lý này Ngài
đã tự tuyên bố là đã khám phá ra chân lý. St Bonnaventura tin rằng tư duy con
người dứt khoát phải hưởng đến sự hiểu biết của Thiên Chúa. Chính vì thế Ngài
nói rằng: Sự hiểu biết Thiên Chúa trước tiên không phải là nhận thức về Thiên
Chúa mà là yêu mến Thiên Chúa. Người ta có được tri thức tối thượng là nhờ ơn
soi sáng chứ không phải nhờ suy luận của con người. Khái niệm Mô mẫu Thụ tạo là
hình ảnh hay là sự thông dự vào Mô mẫu lý tưởng Thần Linh. Thế giới là một phản
ảnh mang tính biểu tượng của thế giới Thần Linh. Qua đó, ta thấy rằng St
Bonnaventura có một quan điểm coi trọng “ái cảm” hơn là “tri thức”. Ngài cho
rằng: Một khi lý trí nhận ra Thiên Chúa là mục đích tối hậu của nó thì lý trí
chỉ muốn kết hợp với Thiên Chúa. Cuối cùng Ngài đưa ra một khái niệm tri thức
về Thiên Chúa là: Khi ý chí thức giấc thì tất cả phải lặng yên (Hexaemeron
2.30). Tư tưởng của St Bonnaventura chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi Đấng sáng lập
của Hội Dòng Phanxico Assisi. Thánh nhân không chỉ là trung tâm nhưng còn là
mặt trời và là sứ vụ của Bonnaventura. Chính vì vậy trong các tác phẩm của Ngài
đều nhấn mạnh đến sự suy niệm và việc chiêm ngường này tập trung vào ba lĩnh
vực chính yếu: Suy niệm về thế giới tự nhiên, về bản thân con người và bản tính
Thiên Chúa.
Kết luận:
Qua những điểm giống và khác nhau nói
trên, cho ta nhận thấy cả hai Ngài đã sử dụng những con đường khác nhau để tìm
đến Thiên Chúa. Một bên là tin để hiểu còn một bên hiểu để tin. Nhưng cả hai
đều không có sự mâu thuẫn, chống đối nhau. Qua đó, niềm tin của ta được củng cố
và giúp ta sáng tỏ hơn về Đấng mà ta đang tin thờ. Niềm tin của chúng ta không
phải la một sự mê tín nhưng niềm tin của chúng ta phát xuất từ con tim, lòng
mến, lý trí hay nói cách khác niềm tin của chúng ta là tất cả con người của
chúng ta làm nên một đức tin. Cả con người của ta chính là con người của Chúa.
Chính Chúa đang hoạt động và gìn giữ ta trong mọi nơi mọi lúc.
Ant Công Chính
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét