Thứ Bảy, 4 tháng 3, 2017

LINH MỤC TRONG VIỆC HỘI NHẬP VĂN HÓA GIÁO XỨ

Ant. Nguyễn Công Chính
 Trong tông huấn Ecclesia in Africa (1995), định nghĩa hội nhập văn hóa như sau: Hội nhập văn hóa là tiến trình hướng tới việc truyền giáo đầy đủ. Mục đích của hội nhập văn hóa là giúp con người sẵn sàng đón nhận Đức Giêsu Kitô cách trọn vẹn, đồng thời, biến đổi họ trên bình diện cá nhân, văn hóa, kinh tế, chính trị, ngõ hầu dẫn họ tới cuộc sống kết hiệp mật thiết với Chúa Cha qua hoạt động của Chúa Thánh Thần.[1] Dựa trên định nghĩa này, người viết muốn khai triển một khía cạnh nhỏ về  “sứ vụ linh mục trong việc hội nhập văn hóa tại các giáo xứ.” Qua đó, phần nào có thể hiểu rõ và sáng tỏ hơn định nghĩa trên và cũng cho ta thấy tầm quan trọng trong việc hội nhập văn hóa.
Có thể nói, ngoài phân biệt sự khác nhau giữa con người và các sinh vật trên mặt đất ở “lý trí,” thì còn thêm một khẳng định cho sự khác nhau này chính là “văn hóa.” Thực vậy, con người là hữu thể văn hóa.[2] Geertz cho rằng con người là sinh vật “bị treo” trên lớp mạng do mình dệt nên, trong đó, văn hóa là quan trọng nhất.[3] Con người sinh ra, ngoài việc thích nghi với môi trường sống, còn có một sự thích nghi với “văn hóa” của môi trường đó. Chính “văn hóa” này sẽ hình thành nên nhân cách, cách suy nghĩ của con người đó.
 Người viết xin được mượn câu nói của Cervanter- Tây Ban Nha, để nói về văn hóa: Hãy nói cho tôi biết, bạn của anh là ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai. Mặc đù không đúng hoàn toàn nhưng phần nào đó cũng cho ta thấy được sự tượng phản của một ai đó hình thành nên nhân cách và tính tình của người đó. Chính vì thế, ta có thể nói, con người được sinh ra trong một nền “văn hóa” như thế nào thì cũng sẽ hình thành lên sự phát triển của con người đó như vậy. Qua đó, ta thấy được mỗi nơi, mỗi vùng có một nền văn hóa khác nhau. Vì thế, ta không thể bê một nền văn hóa hoàn toàn mới lạ để áp dụng vào một nền văn hóa đã hình thành lâu đời.
 Thực vây, vấn đề hội nhập văn hóa là một công việc hết sức khó khăn và cần thiết của các nhà truyền giáo nói chung và các linh mục quản xứ trong thời đại hôm này nói riêng. Mỗi giáo xứ có một nền “văn hóa” khác nhau, chính nền “văn hóa” này đã hình thành nên nhân cách và lối sống của con người tại giáo xứ đó, nên nhiệm vụ trước tiên của linh mục khi được “sai đến” là phải tìm hiểu văn hóa của giáo xứ đó, để thích nghi với cách sống và lối suy nghĩ của những con người trong giáo xứ đó. Đây cũng là lý do người viết muốn khai triển định nghĩa trên. Qua đó thấy được vai trò của sứ vụ linh mục trong việc hội nhập văn hóa tại các giáo xứ. Từ đó, mang lại hoa trái Chúa Ba Ngôi đến từng thành viên trong cộng đoàn giáo xứ, để Chúa Ba Ngôi hằng hướng dẫn và đi vào nội tâm đời sống của mỗi người trong giáo xứ.



1/ Khái Quát Vai Trò Của Sứ Vụ Linh Mục
a/ Vai trò giảng dậy   
 Trong ngày lễ ngũ tuần, Ðức Giêsu nói với mười một tông đồ rằng: Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.[4] Đây không những là lệnh truyền của Chúa Giê-su đối với các môn đệ nhưng còn là lệnh truyền dành cho muôn thế hệ, những người đang thuộc về Đức Ki-tô qua bí tích rửa tội. Thể hiện cách rõ ràng nhất lệnh truyền này đó chính là hàng Giáo Sĩ và những người đang âm thầm dâng hiến cuộc đời mình trong Đức Ki-tô. Thật vây, linh mục mang trong mình sứ mệnh của Đức Ki-tô đến mọi nơi trên mặt đất này, cách đặc biệt đến những nơi mà Lời Chúa chưa được đến với họ. Trong niềm tin vào Đức Ki-tô, dân Chúa được quy tụ trước tiên là nhờ lời Thiên Chúa hằng sống, lời này phải được đặc biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các linh mục. [5] Chính đời sống và lời giảng của các linh mục là bảo chứng lệnh truyền của Đức Ki-tô đang được thực hiện.
b/ Vai trò Thánh Hóa
 Chúa Con nhiệm sinh từ Chúa Cha, Ngài đã ban chính Con yêu dấu của Ngài cho nhân loại, để nhân loại được ăn năn sám hối trở về với tình yêu bao la của Thiên Chúa. Thực vậy, Chúa Giê-su, ngoài việc kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, Ngài luôn để ý và kêu gọi những người bước theo hành trình rao giảng, “Người bảo các ông: các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá,”[6] những con người này sẽ tiếp nối sứ mạng của Chúa Giê-su sau này. Khi xưa, các tông đồ được Chúa Giê-su kêu gọi thì nay các tông đồ cùng kêu gọi những người khác bước theo các tông đồ “Thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ đặt họ làm công việc phân phát lương thực.”[7] Chúng ta có thể khẳng định rằng, lời kêu gọi này sẽ được thực hiện đến muôn ngàn đời. Quả thật, Thiên Chúa mới là tác nhân chính trong viêc kêu gọi này và chính Ngài sẽ biển đổi những con người này nên giống Chúa Ki-tô. Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Đấng thánh hóa duy nhất đã muốn nhận một số người làm cộng sự viên và trợ tá, những người khiêm tốn phục vụ công việc thánh hóa. Các linh mục được Thiên Chúa hiến thánh qua tay Giám mục, để nhờ được tham dự cách đặc biệt vào chức tư tế của Chúa Ki-tô, các Ngài cử hành việc phụng tự thánh với tư cách là thừa tác viên của Đấng không ngừng thực thi trong phụng vụ tác vụ tư tế của Người, nhờ Chúa Thánh, để mưu ích cho chúng ta.[8] Chính vì thế, linh mục được thông dự cách tròn dầy vào thân hình mầu nhiệm Chúa Ki-tô qua việc cử hành các bí tích của Chúa Ki-tô, là đầu và là trưởng tử của Hội Thánh.
c/ Vai trò quản trị
 Qua thánh chức! linh mục là những người quản lý và phân phát kho tàng ơn Thánh Chúa cho hết thảy mọi tín hữu. Thực vậy, trong Hy tế Thánh lễ, các linh mục hãy dạy cho các tín hữu biết dâng lên Chúa Cha lễ vật chí thánh và hợp dâng vào đó lễ vật đời mình, trong tinh thần của vị Mục Tử nhân lành, các ngài khuyên nhủ họ thành tâm thống hối xưng thú lỗi lầm với Giáo Hội qua bí tích Hòa Giải để ngày càng quay về gần Chúa hơn,[9]  bằng cách luôn nhớ lời Người bảo: “Hãy thống hối vì Nước Trời đã đến gần.” [10] Chính vì vậy, linh mục phải ra sức rao giảng, để ơn Thánh Chúa được triển nở và đến với từng người trong cộng đoàn.
2/ Áp Dụng Ba Vai Trò của  Sứ Vụ Linh Mục Trong Việc Hội Nhập Văn Hóa.
 Trong Lời rao giảng của Chúa Gie-su, Ngài luôn lấy những hình ảnh thực tế để áp dụng vào Lời rao giảng, như: Chúa Giê-su chữa người bị bệnh phong và lấy hình ảnh con bò để giải thích. “Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa -bát” [11] hoặc “Người đem một em nhỏ đặt giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy, và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”[12]......
 Trong bối cảnh thế giới ngày nay, việc giảng thuyết của linh mục thường gặp rất nhiều khó khăn, vì thế để có thể lay động tâm hồn người nghe, lời giảng không chỉ trình bày Lời Chúa cách tổng quát và trìu tượng, nhưng phải áp dụng chân lý ngàn đời của Tin Mừng vào các hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống.[13] Quả vậy, con người trong xã hội ngày nay đang được hưởng một văn minh hiện đại, từ đời sống đến khoa học trí tuệ. Chính vì thế, Đức Chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhấn mạnh giá trị của đời sống chứng nhân trong việc loan báo Tin Mừng: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân,”[14] đây là bổn phận và trách nhiệm của linh mục được sai đến với cộng đoàn tín hữu. Thật vậy, các ngài không thể là thừa tác vụ của Đức Ki-tô nếu không trở nên chứng nhân và nên người ban phát một đời sống khác với đời sống trần thế này, tuy nhiên các ngài không thể phục vụ nhân loại nếu lại trở nên xa lạ với cuộc đời và những hoàn cảnh sống của nhân loại.[15]
 Thực vậy, linh mục được sai đến không phải ngồi một chỗ trong một thế giới riêng tư, để không cân biết cộng đoàn mình sống chết thế nào, để rồi đến giờ lễ, lên giảng một bài cho qua chuyện, không cần biết những điều mình nói có phù hợp với cộng đoàn này hay không. Chính Thánh Augstinnô nói: Cho anh chị em, tôi là Giám mục, với anh chị em, tôi là một Ki-tô hữu. Chính vì thế, linh mục không phải là một con người cô lập, nhưng ngài là thành viên của một tập thể hữu cơ, đó là Giáo hội phổ quát, giáo phận, giáo xứ ....[16]. Có lẽ điều tối kị nhất đối với một linh mục đó là sự so sánh giữa xứ trước kia và xứ hiện nay, bởi vì mỗi giáo xứ có một văn hóa khác nhau, nên linh mục không thể áp dụng cách sống và cách mục vụ của xứ trước kia với xứ hiện tại được. Chính vì thế, linh mục được mời gọi ra đi để tìm hiểu và hội nhập với văn hóa trong xứ sở mới của mình. Từ đó, linh mục sẽ có đời sống và phương pháp mục vụ và giảng dậy cho phù hợp với cộng đoàn được trao phó. Nếu một linh mục không tìm hiểu văn hóa nơi đó thì những lời giảng dậy trở nên nhàm chán và thất bại trong đường hướng mục vụ tại chính nơi mình được sai đến. Vì thế, việc đầu tiên của linh mục khi được sai đến là tìm hiểu văn hóa và cuộc sống ở nơi đó như thế nào. Đây là một công việc không ai có thể làm thay cho linh mục mà chính linh mục phải đi ra và tìm hiểu. Từ đó, linh mục mới cảm nhận được bằng chính con tim và khối ốc của vị mục tử nhân lành đối với đoàn chiên. Qua đó, linh mục sẽ thấy được những con chiên nào cần được chăm sóc và cần bằng bó cách chu đáo.[17] Quả vậy, chính đời sống và gương sáng của linh mục là hình ảnh truyền giáo cách mãnh liệt nhất. Linh mục được mời gọi đi ra, hòa cùng nhịp đập với con tim của đoàn chiên. Từ đó, linh mục mang tất cả tâm tư, ước nguyện vào Lời Chúa, để nói với cộng đoàn, chắc chắn cộng đoàn sẽ cảm nhận được Lời Chúa và được chính Chúa Giê-su đánh động và thôi thúc họ bỏ con đường tội lỗi mà trở về. Thật vậy, giữa lòng dân Chúa, các tư tế của Giao Ước mới, do ơn gọi và chức thánh, một cách nào đó cũng đã được dành riêng, không phải để tách biệt khỏi đoàn dân hoặc khỏi bất cứ một ai, nhưng để được thánh hiến hoàn toàn cho công việc Chúa trao phó.[18]
 Một mặt, linh mục vừa phải sống và hội nhập với văn hóa trong giáo xứ cách nhanh nhất, mặt khác linh mục cũng phải chu toàn bổn phận thánh hóa, để cộng đoàn tín hữu được kết hợp trọn vẹn với thân mình Đức Ki-tô nhờ việc lãnh nhận Thánh Thể. Bởi vì, bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể cộng cuộc loan báo Tin Mừng.[19] Chính vì thế, linh mục dù có bận rộn công việc đến mấy cũng phải liệu sao để hằng ngày cộng đoàn tín hữu được đón nhận thần lương nuôi sống linh hồn. Linh mục cũng phải tìm hiểu và liệu thời gian cho phù hợp để cộng đoàn trong giáo xứ được tham dự bí tích Thánh Thể cách đông đủ nhất. Thật vậy, bí tích Thánh Thể còn được kéo dài suốt ngày trong các giờ Kinh Nhật Tụng, khi các ngài nhân danh Giáo hội khẩn cầu cùng Thiên Chúa cho đoàn dân đã được trao phó cho các ngài, đồng thời cũng cầu cho toàn thể thế giới.[20]
 Bí tích Thể là trung tâm đời sống Ki-tô hữu, nên các linh mục phải tạo bầu khí trang nghiêm trong việc cử hành, để cộng đoàn được kết hợp với Chúa Giê-su Thánh Thể cách trọn vẹn. Chính vì thế, linh mục không nên biện lý do là hội nhập văn hóa mà biến việc cử hành Thánh Thể như một buổi hòa nhạc hay một buổi múa phụ họa hay những việc đạo đức khác mà không chú trọng đến việc cử hành bí tích Thánh Thể. Có những linh mục quá chú tâm đến dáng vẻ bên ngoài mà quyên đi nét đep bên trong tâm hồn. Thật vậy, những nghi lễ dù đẹp mắt, những hội đoàn dù phát triển rầm rộ, cũng sẽ thành vô ích, nếu không hướng đến mục tiêu giáo dục mọi người trở nên những Ki-tô hữu trường thành.[21] Trưởng thành ở đây là trưởng thành về đời sống đức tin, đời sống luân lý, để qua đó người ngoài nhìn vào sẽ nhận biết cộng đoàn tín hữu này là môn đệ của Đức Ki-tô.[22]  Như vây, để cho cộng đoàn tín hữu được tràn đầy ơn Thánh và có đời sống nội tâm sâu sắc, trước hết linh mục cần có đời sống thánh thiện và đời sống nội tâm sâu sắc trước nhất. Nhờ đó, ơn thánh Chúa được tuôn tràn trên linh mục và cộng đoàn tín hữu. Người viết xin được mượn Thánh vịnh 133 để nói lên sự tuân tràn ơn thánh từ đời sống thánh thiện của linh mục.
Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
anh em được sống vui vầy bên nhau,
Như dầu quý đổ trên đầu
xuống râu xuống cổ áo chầu A-ha-ron,
như sương từ đỉnh Khec-môn
tỏa trên đồi núi Xi-on lan tràn,
nơi đây ân huệ Chúa ban,
chính là sự sống chứa chan muôn đời.
 Không những thế, linh mục là người quản lý và phân phát kho tàng ơn thánh Chúa cho hết thảy mọi tín hữu, cách đặc biệt đối với cộng đoàn giáo xứ đã được Chúa và Giáo hội trao phó. Vì thế, ngoài bổn phận phải cắt nghĩa cho giáo dân hiểu được tầm quan trọng của nguồn ơn thánh, trước hết linh mục phải trở nên những người quản lý cách khôn ngoan và trung tín. Quản lý cách khôn ngoan và cách trung tín ở đây không có nghĩa là khôn ngoan và trung tín theo kiểu của thế gian, chỉ biết làm lợi cho mình mà quyên đi những người xung quanh. Có lẽ câu truyện về dụ ngôn người quản lý bất lương trong Tin Mừng,[23] phần nào cho ta hiểu về người quản lý cách khôn ngoan và trung tín theo kiểu của thế gian và điều Thiên Chúa muốn nơi người quản lý kho tàng ơn thánh.
 Quả vậy, khôn ngoan và trung tín là hai đức tính rất cần thiết cho người quản lý. Nếu người quản lý chỉ trung tín mà thiếu khôn ngoan, thì đó chỉ là người bảo vệ kho tàng của chủ mà không sinh ích gì cho chủ. Còn nếu như người quản lý chỉ khôn ngoan mà không trung tín, thì trước sau cũng trở thành người phản chủ hoặc là người làm thiệt hại của chủ. Như vậy, Chúa Giê-su mong muốn nơi người linh mục hội tụ cả hai yếu tố khôn ngoan và trung tín. Chính nhờ hai yếu tố này, linh mục là cánh tay nối dài của Thiên Chúa, hầu mang lại nguồn ơn thánh cho cộng đoàn tín hữu. Chính vì thế, linh mục phải khôn ngoan mang Lời Chúa vào trong văn hóa của cộng đoàn để mà giảng dậy, nhờ đó Lời Chúa được thấm nhuần và đi sâu vào cuộc sống hiện tại của tín hữu, hầu có thể phân phát ơn thánh Chúa cho hết thảy mọi người. Nhưng cũng không vì lý do này mà linh mục làm mất giá trị của Lời Chúa và phân phát kho tàng ơn thánh cách không đúng và làm phương hại đến ơn thánh “của Thánh, đừng quang cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi  còn quay lại cắn xé anh em.”[24]
 Chính vì vậy, để thực hiện tốt vai trò quản lý thì linh mục phải ra sức giảng dậy giáo lý và sống với văn hóa của cộng đoàn, hầu có thể hiểu và phân phát ơn thánh Chúa cách tốt nhất. Sở dĩ linh mục phải hội nhập với văn hóa của cộng đoàn trước tiến, để qua đó linh mục có thể hiểu và truyền dậy và phân phát ơn thánh cách tốt nhất. Qua đó, linh mục cũng có thể dựa vào Lời Chúa mà “chuyển hướng” cách khôn khéo những “văn hóa” không cần thiết hay rườm rà trong phụng vụ hoặc đời sống, hầu mang lại cách “trọn vẹn” nguồn ơn thánh cho cộng đoàn tín hữu đã được trao phó.
3/ Tạm kết
 Qua định nghĩa về “Hội Nhập Văn Hóa” trong tông huấn Ecclesa in Africa (1995), và  người viết triển khai trong cái nhìn về “sứ vụ Linh mục trong việc hội nhập văn hóa giáo xứ,” phần nào đó cho ta thấy vấn đề hội nhập văn hóa là hết sức cần thiết đối với linh mục nói riêng và tất cả mọi người nói chung. Bởi vì, con người được mời gọi sống hiệp thông và kết hợp mật thiết với nhau trong một cộng đoàn làng xã nào đó. Như bài hát trong Album bài ca giáo lý-sinh hoạt có viết: Tôi chỉ thực sự là người nếu tôi sống với anh em tôi! không phải ai xa lạ mà là người đang đứng bên tôi! Thế giới này không ai là một hòn đảo! vườn hoa này không có loài hoa lạc loài. Qua đó, cho ta thấy giá trị của hội nhập văn hóa không những trong con người mà cả thế giới thụ tạo. Thực vậy, đã là con người thì không ai là một hòn đảo, nên con người được mời gọi sống với các mối tương quan, để sống được với các mối tương quan thì trước tiên là phải hiểu về cuộc sống và văn hóa ở đó như thế nào. Khi đã hiểu được thì những lời nói và cách cư xử của mình dễ được người khác chấp nhập và tán thành. Đối với con người, có thể nói khắp nơi trên thế giới này đều là nhà và tất cả mọi người xung quanh là anh em của ta.
 Quả thực, sứ vụ chính yếu của linh mục là mang kho tàng ơn Thánh đến với muôn dân, và giúp mỗi người được tiến đến gần tình yêu Chúa hơn. Chính vì thế, linh mục phải biết hội nhập văn hóa, để cho Lời Chúa được đi sâu vào trong trái tim của từng người trong cộng đoàn chứ không phải là cải vỏ bên ngoài. Chính tông đồ Phaolô đã nói “Giả như tôi được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh là phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm , mọi lẽ cao siêu hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng có ích gì cho tôi.”[25]  Như vậy “Đức Mến” ở đây ta có thể hiểu về “sự hội nhập văn hóa của linh mục trong cộng đoàn giáo xứ.” Quả vậy, khi linh mục tìm hiểu văn hóa ở giáo xứ đó thì những củ chỉ của linh mục mang đậm nét yêu thương, một cử chỉ xuất phát từ con tim chứ không phải từ ý chí đến đôi bàn tay, tất cả những thử đó khi hành động mà không có “Con Tim” thì cũng giống như thanh là kêu “pheng pheng” mà thôi.





[1] ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Viên, Hội Nhập Văn Hóa và Đối Thoại Liên Tôn, 2016, 58.
[2] ĐGM. Nguyễn Văn Viên, Hội Nhập Văn Hóa và Đối Thoại Liên Tôn, năm 2016, Tr 22.
[3] Ibid, 22.
[4] Mc 16,15
[5] Công Đồng Vaticano II, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 4,588.
[6] Mc 1,17
[7] Cv 6,3
[8] ID, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống các linh mục, Số 5, 591.
[9] ID, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 5, 593
[10] Mt 4,17
[11] Lc 14,5
[12] Mc 9,36-37
[13] ID, sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, số  4, 590.
[14] Thông điệp Evangelii nuntiandi, số 41.
[15] ID, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 3, 586
[16] Lm. Giu-se Lê Công Đức, linh đạo linh mục giáo phận, Nxb Phương đông, 2013, 49.
[17] Ed 34,16
[18] ID, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 3, 586.
[19] ID, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 5, 593
[20] ID, Sắc lệnh vè tác vụ và đời sống linh mục, Số 5, 594.
[21] ID, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 6, 596.
[22] Ga 13,35
[23] Lc 16,1-13.
[24] Mt 7,6.
[25] 1 Cr 13,1-3