Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2015

PHÙ VÂN

Anton Nguyễn Công Chính

 Toàn bộ những ý tưởng của Cô-he-let trong sách giảng viên như là một triết lý sống không những cho bản thân mà cho muôn thế hệ mai sau. Qủa thực, từng câu, từng chữ như là một lời nhắn nhủ và khuyên bảo con người phải biết ăn ngay ở lành. Cuộc sống ở trần gian chẳng là gì cả, tất cả chỉ là phương tiện để giúp ta tiến gần hơn tới Thiên Chúa chứ không phải là cái làm nên cuộc sống này, cũng không phải là cái làm nên hạnh phúc của ta ở đời này. Cuộc đời con người ai cũng có một lần sinh ra và một lần chết đi ‘một thời để chào đời, một thời để lìa thế’ (x. Gv 3,2). Gắn bó trên cuộc đời mỗi người là một cuộc hành trình đi tìm. Hỏi đi tìm cái gì ? Thưa đi tìm hạnh phúc. Như vậy hạnh phúc đích thực và viên mãn chỉ có nơi Thiên Chúa. Đó mới là cái mà con người phải đi tìm. Trong thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Corinto có nói: “Trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng. Phàm là tay đua thì phải kiêng kỵ đủ điều, song họ làm như vậy là để đoạt phần thưởng chóng hư; trái lại chúng ta nhằm phần thưởng không bao giờ hư nát” (1 Cr 9,24-25).
Con người ngày hôm nay, dương như đã lấy thế gian này làm nguồn hạnh phúc đích thực. Họ tìm mọi cách để thu tích của chóng qua cho bản thân, nhằm thỏa mãn những gì là thân xác đang mong muốn. Tất cả nhằm hưởng thụ những gì là thế gian ban tặng làm nguồn hạnh phúc đích thật. Tất cả với quan niệm: trẻ không chơi già hối hận hay sống để ăn chứ không phải ăn để sống. Thực vậy, với lối suy nghĩ của con người ngày nay thì cuộc sống thế gian là chỗ để tìm kiếm hạnh phúc chứ không phải một nơi nào đó quá xa lạ. Những điều này sẽ là những lời phản biện từ sách giảng viên. Qua sách giảng viên cho ta thấy tận căn của đời sống con người. Đó cũng là câu trả lời cho những quan niệm sống hiện tại, không những giới trẻ mà cho tất cả mọi người đang còn sống trên thế gian này. Mấu chốt nội dung sẽ được tìm hiểu sâu trong đoạn ‘phù vân, quả là phù vân. Phù vân quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân’ (Gv 1,2).
1/ Nội dung
        Để hiểu sâu hơn về các sự kiện trong cuộc sống, tác giả sách Giảng Viên đã tự hỏi : Con người có thể tìm thấy trong các sự vật trên trái đất hạnh phúc viên mãn mà lòng mơ ước hay không ? để tìm ra câu trả lời, ông duyệt qua tất cả những gì có vẻ như hứa hẹn sự thỏa mãn đó. Kết cục, ông chỉ tìm thấy tất cả là hư ảo ; những gắng công mà con người đem ra để theo đuổi hạnh phúc chỉ là rượt theo gió mà thôi [1]. Qủa thật muôn vật được tạo dựng trong đó có con người là một hồng ân nhưng không mà Thiên Chúa đã ban tặng cho nhân loại. Con người được vinh dự cộng tác vào trong công trình của Người, để con người đi vào mối hiệp thông với Thiên Chúa và muôn vật Ngài đã làm nên ‘Hãy sinh sôi nẩy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất, hãy làm bá chủ cá biển, chim trời, và mọi giống vật bò trên mặt đất’ (x. St 1,28). Tất cả những thứ con người hưởng dùng chỉ là phương tiện để giúp con người sống chứ không phải cái làm nên cuộc sống ‘Đây ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ mang hạt giống trên khắp mặt đất, và mọi thứ cây có trái mang hạt giống, để làm lương thực cho các ngươi’ (x. St 1,29). Qua đó cũng nói lên con người phải làm chủ lấy vật chất xung quanh mình chứ không phải vật chất làm chủ cuộc sống. Nhưng cũng không vì thế mà ta buông suôi tất cả, để rồi cuộc sống trôi dạt về đâu tùy ý và hoàn toàn phó mặc cho Thiên Chúa mặc người định đoạt lấy số phận cho mình. Con người được Chúa mời gọi cộng tác vào trong công trình của Người đó là muôn vật xung quanh họ nhưng họ không được lấy vật chất thế gian làm điểm tựa và cốt lõi của đời sống nhưng sống cùng với vật chất là cùng Chúa bước đi trên hành trình dường thế.
        Nhìn vào thực trạng xã hội ngày nay, dường như mọi thứ đã thay đổi hoàn toàn. Nhiều lúc con người không biết được mình đang đi, đang hướng về đâu trên cuộc đời này. Tất cả mọi thứ ngoại cảnh tác động làm cho con người luôn xoay vần với thực tại trần thế. Để so sánh sự hơn thua với nhau, con người luôn lấy vật chất làm thước đo, lấy danh vọng làm cán cân, lấy chức quyền làm chỗ cai trị. Qua đó, ta thấy được tất cả mọi thứ con người hướng tới đều là vất chất, nhằm tạo cho mình một bộ áo giáp vững chắc để bao bọc một thân xác mau hử nát trên trần gian, nhưng lại quên không tạo cho mình bộ áo mai sau trên nước trời. Thực vậy, cuộc sống trần gian chỉ là tạm thời cho một thực tại mai sau mà thôi. Con người dù giàu hay nghèo nhưng khi chết đi cũng đâu mang được gì ngoài ‘4 tấm dài và 2 tấm ngắn’ kết lại để mang xuống lòng đất. Sách Giảng viên cho ta thấy ‘mọi sự đều đi về một nơi, mọi sự đều đến từ bụi đất, mọi sự đều trở về bụi đất’ (x. Gv 3,20). Câu chuyện anh Ladaro nghèo khó và người phú hộ giàu có trong Tin mừng (Lc 16,19-31), sẽ cho ta thấy thực trạng về hai cuộc sống. Trong sự giàu sang thì cao lương mỹ vị đối với họ là chuyện thường. Măc dù có đầy đủ của cải nhưng ông vẫn cảm thấy chưa đủ và tiếp tục thu vét những gì có lợi cho bản thân, mà quên đi nhưng người xung quanh ‘Người thích tiền bạc có bao nhiêu cũng không lấy làm đủ’(x. Gv 5,9). Chính lối suy nghĩ như thế nên những người xung quanh chỉ làm phiền lòng mà thôi. Đối với ông những người xung quanh không được coi trọng bằng những con vật ở trong nhà ‘lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc La-da-rô’ (x. Lc 16,21). Một thái độ hờ hững trước nỗi khổ của người khác. Rồi một ngày nào đó cả hai đều vĩnh viễn rời thế gian này để bước vào đời sống mai sau. Chớ trêu thay khi người phú hộ nhìn thấy cảnh La-da-ro được tổ phụ Áp- ra-ham ôm vào lòng còn ông phải chịu lửa hằng ngày thiêu đốt. Đó là cái kết cho một đời người chỉ nghĩ đến bản thân mình mà quên đi những người xung quanh. Thực sự, Chúa không phạt những người giàu có và yêu thương những người nghèo khổ. Nhưng Chúa phạt ở thái độ và cách sống của con người. Khi con người đã bị của cải làm chủ thì chính của cải sẽ dẫn con người đến chỗ diệt vọng, của cải đã làm lu mờ ý trí của con người nên đã không còn để ý đến cuộc sống của những người xung quanh ‘của càng nhiều, người ăn càng lắm. Người có của được lợi lộc gì, ngoài thú vui được nhìn thấy của cải’(Gv 5,10).
 Qủa thật, cuộc sống trên trần gian chỉ là khoảng thời gian nhỏ hẹp trong khoảng không gian rộng lớn của Thiên Chúa. Cũng thế, của cải cũng chỉ là phần bé nhỏ trong kho tàng rộng lớn trên trời. Con người được mời gọi bước đi trong cuộc lữ hành trần thế của Chúa và cộng tác với Ngài trong công trình rộng lớn mà Thiên Chúa đã tác tạo. Chính Ngài đã nói ‘anh em chẳng biết sao: trong cuộc chạy đua trên thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt giải. Anh em hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng’ (Cr 9,24). Cuộc sống mỗi người trên trần gian ai cũng phải chạy, ai cũng phải làm ích cho bản thân nhưng sẽ có những người của cải làm cho cuộc chạy đua của họ đi lạc đường, lạc mất phương hướng để rồi muốn quay trở lại cũng là cả một vấn đề vì của cải đã làm lu mờ con đường họ đã đi. Lm Nguyễn Sang cho ta một cách suy nghĩ về đời sống của mỗi người ‘hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro. Ôi muôn sự đều hão huyền, giã trá và phù vân. Một điều vững bền thiên thu: Đức kính yêu Chúa Trời’. Thật vậy, tiền bạc, chức quyền, tưởng rằng những điều đó đem lại cho con người hạnh phúc, nhưng  khổ vẫn khổ. Có thể họ sung sướng thỏa mãn trong một thời gian, nhưng rồi sau đó lại thấy bất hạnh! Thành công cũng làm con người thỏa mãn trong một khoảnh khắc nào đó, nhưng rồi tất cả cũng qua đi “Nào ai giầu ba họ, nào ai khó ba đời!”. Tiền bạc, tài sản, tất cả sẽ qua đi, kể cả mạng sống con người cũng qua đi. Thời gian sẽ đưa tất cả đến chỗ “kết” của nó [2]. Tất cả mọi chiều kích con người đang sử dụng chỉ là phương tiện để cải thiện cuộc sống chứ không phải điều cốt lõi làm nên cuộc sống này. Tất cả chiều kích là của mình nhưng con người có biết sử dụng để tạo nên hạnh phúc cho mình và biến nó thành những công cụ tốt cho ta hay chỉ cậy dựa vào đó như một cỗ may vô hồn để rồi đẩy đưa con người vào những nơi mà bản chất mỗi người không mong muốn. Mọi hành động, mọi suy nghĩ của con người hãy nghĩ đến cuộc sống mai sau, đó mới là cuộc sống vĩnh cứu mà mỗi người cần đạt tới. Nghĩ được như vậy, con người sẽ biết điều phối những của cải thể gian để làm giàu cho cuộc sống mai sau. Dẫu biết rằng đời người cũng có hạnh phúc tương đối do học thức, giàu sang, cao lương mỹ vị cùng những thú vui khác mà tuổi trẻ và tổ ấm gia đình mang lại nhưng tất cả những thứ đó là do Đấng Tạo Hóa ban cho [3].
2/ Nhận định
        Qua những gì đã phân tích và tìm hiểu cho ta một cái nhìn và một suy nghĩ. Chúa không bảo ta cứ ngồi đó mà cầu nguyện không phải làm chi cả, mọi thứ xung quanh chỉ là phù vân, ta không phải tìm kiếm làm gì cho mệt người, cứ ngồi đây mà nói chuyện với Ta rồi Ta sẽ cho thức ăn từ trên trời rơi xuống. Ngay từ khởi nguyên Chúa đã kêu mời con người được cộng tác với Ngài trong công trình sáng tạo để từ đây sẽ có nguồn lương thực nuôi sống “Ngươi phải đồ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, người đã được lấy ra. người là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất” (St 3,19). Mang thân phận tội lỗi, con người phải bỏ sức của mình ra thì mới có của ăn. Chúa cũng không mời gọi những người giàu có hãy hạnh phúc và vui hưởng những thứ mà ngươi đã làm ra mà không cần để ý đến những người xung quanh nhưng Chúa mời gọi hãy biết sẻ chia “anh chỉ con thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời.”(x. Mc 10,21). Như vậy, chỉ với hình thức bề ngoài thì chưa phải là người yêu mến Chúa thật sự, Chúa mời gọi mỗi người làm từ cái bên trong, cái bên trong mới là điều cốt yếu của một tấm lòng. Của cải Thiên Chúa ban cho nhưng con người phải biết sử dụng nó để nó được sinh lời trên nước trời. Chúa luôn mời gọi con người không chỉ sống mỗi tương quan theo chiều dọc nhưng còn mời gọi cách sâu xa hơn đó là sống mối tương quan theo chiều ngang đó mới là một con người trọn hảo và đó mới là con đường Chúa muốn mọi người bước đi và làm chứng cho Ngài. Thiên Chúa không phải ở đâu xa lạ nhưng ngay trong mỗi người “ai đón tiếp anh em là đón tiếp thầy và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai thầy. Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, thì kẻ ấy là môn đệ Thầy, thì thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu” (x. Mt 10,40.42). Như vậy, cả hai cuộc sống: nghèo và giàu, Chúa đều không nói tới nhưng Chúa luôn mời gọi mỗi người dù ở bậc sống nào cũng phải biết chia sẻ cho nhau và sống trọn bổn phận là con cái Chúa. Mà đã là con cái Chúa thì đó là người của tình yêu. Chính tình yêu sẽ làm cho con người được hạnh phúc và một cuộc sống được dư tràn ơn Chúa. Hãy sống cho ngày mai và bắt đầu bằng hiện tại.



[1] Lm Inhaxio  Nguyễn Ngọc Rao, O,P. giáo trình Các Sách Giáo Huấn, Tr 34.
[2] Joseph Phạm Thanh Liêm, S.J, “Phù Vân”, dongten.net. Truy cập ngày 10/10/2015.
[3] Lm Inhaxio  Nguyễn Ngọc Rao, O,P. giáo trình Các Sách Giáo Huấn, Tr 34. 

Thứ Bảy, 14 tháng 11, 2015

NGHĨ SUY VỀ BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG

Anton Nguyễn Văn Chính
Không có kỉ niệm nào đẹp cho bằng kỉ niệm được đặt chân đến mái trường xã hội đầu tiên. Tất cả với một suy nghĩ “sẽ viết gì trên trang vở đầu tiên của cuộc đời này”. Qua mái trường đã cho ta biết bao dự phóng cho tương lai. Mái trường chính là sự gặp gỡ giữa con người với con người. Điều này đâu con ý nghĩa với thế hệ trẻ bây giờ, chỉ cắm đầu vào việc tìm kiếm kiến thức mà quên đi đạo đức làm con người. Vấn đề nổi trội nhất đối với học sinh, sinh viên trong những năm gần đây là vấn đề “bạo lực học đường”. Đây là điều đáng buồn cho ngành giáo dục và cũng là hồi chuông cảnh báo cho tất cả mọi người nền đạo đức con người đang ngày một xuống cấp. Để hiễu rõ hơn về tình trạng này, mời các bạn cùng tôi đi vào nội dung bên trong để tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những điều đau thương này mà ta đang chứng kiến.
1/ Quan niệm tình bạn tuổi học sinh, sinh viên
        Khoa học kĩ thuật ngày hôm nay mỗi lúc một phát triển, ngồi một chỗ con người có thể biết được mọi thứ. Chính điều này đã đánh cắp đi tuổi thơ của biết bao bạn trẻ. Con người đâu còn được chứng kiến những trò chơi dân gian của học sinh, sinh viên mang trên mình chiếc áo tuổi thơ, thay vào đó là những trò chơi trên các trang mạng. Một thế giới cô lập để làm bạn với những trò chơi điện tử qua chiếc máy thu hình. Với một thế giới ảo tưởng như thế đã đưa tuổi thơ của các em vào một thế giới hoàn toàn xa lạ với thực tế. Để rồi những ám ảnh bởi những trò chơi bạo lực trên mạng đã đưa các em đến những hành động coi mạng sống con người không là gì cả. Từ đó ngấm sâu vào trong tiềm thức của các em, để rồi một lúc nào đó có cơ hội tương tự như thế cũng dẫn các em đến hành động sai lầm và dẫn đến những hậu quả đáng tiếc sẩy ra, để rồi hối hận cũng đã quá muốn so với một đời người. Đối với tuổi thơ trước kia nhờ những trò chơi dân gian mà giúp các em gắn kết lại với nhau và giúp nhau trong học tập. Người ta thường nói “học thầy không tày học bạn”. Qủa thật như vậy, khi người cùng trang lứa tuổi thì dễ trao đổi và đễ bàn chuyện hơn là hỏi thầy cô. Tuổi thơ bây giờ có rất nhiều nhóm bạn nhưng không phải là những nhóm bạn giúp nhau học tập mà quy tụ lại để cùng nhau chơi những trò chơi trên mạng, hoặc có những nhóm bạn tụ tập lại để hại một người nào đó cùng trang lứa tuổi. Tuổi thơ bây giờ giống như một cái bao để các thầy cô cứ vậy mà tấp vào chư đâu biết rằng cái bao nó đã đầy và tràn ra ngoài rồi. Từ xa xưa ông cha ta vẫn thường hay nói “khi chỉ bảo cho người khác đừng trao cho họ quả cam mà hãy trao cho họ cái cuốc cái cầy để tự họ vẫn động mà làm ra quả cảm, điều đó họ mới quý, vì đây là chính sản phẩm họ đã làm được”. Đối với ngành giáo dục hiện nay dương như đã đi ngược lại vấn đề này. Chính vì không có thời gian nên tình bạn giữa con người với nhau dường như cũng có một khoảng cách hoàn toàn xa lạ đối với các em. Tình bạn đối với họ chẳng là gì cả bởi vì chẳng có một kỉ niệm nào gắp bó chúng lại với nhau. Chính vì thế đã ảnh hưởng cách sâu đậm tới cách đối sử với nhau và sâu xa hơn nữa đó là cách hành sử với người trên và người dưới. Bởi vì không có khoảng không để cho các em thực tập với nhau. Người ta thường nói “trăm hay không bằng tay quen”. Kiến thức là một phần còn thực tế lại là phần khác. Có nhiều cái áp dụng kiến thức vào thực tế nhưng cũng có rất nhiều cái không thể áp dụng kiến thức vào thực tế mà lúc này phải dùng kinh nghiệm mới là điều quý giá nhất.
2/ Nguyên nhân bạo lực học đường
 Đối với người dân việt nam nói riêng và đối với thế giới nói chung thì khi nghe có sự thay đổi thì tất cả mọi người sẽ mong chờ điều sắp được nói ra sẽ tốt hơn những điều trước kia. Vâng tất cả sẽ được tốt hơn ngoại trừ ngành giáo dục. Ngành giáo dục thay đổi đến mức con người không ngờ. Không ngờ bởi vì sẽ đạo tạo ra toàn những “cỗ máy”. Với một thực tế ta đang được chứng kiến, học sinh ngày hôm nay chỉ biết đến kiến thức chứ đâu còn biết đến tình người. Qủa thực, mỗi khi tôi nhìn đến những con “rô bốt” làm tôi lại đau lòng trước sự thay đổi của ngành giáo dục. Trong đời chắc có lẽ ai cũng thuộc lòng câu nay “tiên học lễ hậu học văn”. Đây là cái nhìn đầu tiên của tất cả những ai đặt chân đến mái trường xã hội. Tôi thiết nghĩ những người làm trong ngành giáo dục đã bị mù lòa trước câu này và thay vào đó là những đồng tiền Colime. Tất cả những sự thay đổi đó ảnh hưởng tới toàn bộ đời sống học sinh, sinh viên. Qua đó dẫn đến những tình huống đau lòng khi phải chứng kiến những tấm áo của học sinh, sinh viên đang “vật lộn” hay trà đạp nên nhân phẩm của nhau và cách nhìn sâu rộng hơn là chà đạp lên chính thân thể của những người làm trong ngành giáo dục. Nhưng liệu chừng những con người này có nhìn và thấu hiểu được chăng?.
Xã hội đã tạo cho các em có sự thay đổi đáng kể về đời sống cũng như tâm lý, sinh lý, quan niệm, nhưng ngành giáo giục lại không thấy được điều này để kịp thời có những bài học hay những bài nói chuyện để giúp các em chủ động hơn đối với các vấn đề đang diễn ra. Chính vì có sự thăng tiến về khoa học và du nhập nhiều nền văn hóa khác nhau nên tuổi dậy thì của các em bây giờ khá sớm. Tình yêu của học sinh bây giờ không phải là một tình yêu đơn phương như trước kia nữa nhưng là một tình yêu cho tất cả. Qủa thực, đối với các em học sinh ngày hôm nay với quan niệm muốn khám phá bản thân. Không phải khám phá bản thân để sửa đội và trở nên tốt hơn mà khám phả bản thân ở đây phải hiểu là khám phá về “thân xác”, là sự cho đi khi được người khác yêu thương. Sơ dĩ có sự thay đổi này vì trong xã hội ngày hôm nay phương tiện giải trí của các em chủ yếu là truyền hình, truyền thông nhưng hầu hết các trương trình truyền hình đều có không ít những hình ảnh mang tính đồi trụy, những bộ phim cũng không ít những cảnh nóng bỏng sẩy ra. Vấn đề thu hút các em phần lớn và lấy được tiếng cười của các em đó là những tiểu phẩm hài nhưng những tiểu phẩm hài này đều hướng tới vấn đề thân xác. Điều này đã ảnh hưởng lớn tới tâm trí của các em và đẫn đến những thay đổi khá sớm nơi thân xác các em và từ đó các em càng muốn tò mò hơn về bản thân.
Khi một tình yêu không được đáp trả thì lòng “ghen” nổi lên trong con người. Đây là vấn đề chính đẫn đến bạo lực học đường. Khi tình yêu được dành cho một người mà không được đáp trả và bị người khác cướp mất thì lòng “ghen” trong con người đó dâng lên đến tột đỉnh. Người ta thường nói “ăn không được thì đạp đổ”. Cho nên, khi tính ghen của người phụ nữ đã nổi lên thì đừng hỏi mặt trời tròn hay vuông. Lúc này trước mắt và trong suy nghĩ chỉ có một điều là triệt hạ đối phương để không còn nhìn thấy người đó trước mắt. Người ta thường nói về phụ nữ “con gái không biết ghen thì không phải là con gái”. Chính vì thế có thể nói là tất cả những vụ đánh ghen hay bao lực học đường dường như sẩy ra với phụ nữ.  Vấn đề bạo lực học đường phần lớn sẩy ra chủ yếu là “ghen” về tình yêu hay “ghen” về sắc đẹp.
3/ Nguyên nhân dẫn đến sự nghiêm trọng
        Người ta thương nói “cái bát cái chèn úm lại với nhau còn sứt mẻ huống chi là con người”. Qủa thật, sự va chạm giữa con người với nhau không ít thì nhiều không ai nói là không có. Đời sống vợ chồng cho ta thấy rõ điều này, Khi yêu nhau thì nói gon nói gọt “em, anh mà không lấy được anh, em thì em, anh sống chẳng còn ý nghĩa nữa”. Câu nói là thế nhưng về sống với nhau liệu chừng được bao nhiêu phần trăm là sự thật trong cấu nói đó. Một gia đình có hạnh phúc đến mấy mà nói không một lần va chạm với nhau thì người đó hoàn toàn nói dối, tôi dám khẳng định như vậy.
        Mỗi thời đại, mỗi bậc sống đều có những chuyện của những lửa tuổi đó, điều này không loại trừ ai. Chính vì thế, tôi không nói là lên án những cảnh tượng dụng chạm nhau giữa con người với nhau nhưng tôi muốn lên án cách kịch liệt những con người thờ ơ, lãnh đạm khi chứng kiến những cảnh đụng độ đó. Những người xung quanh không những không kịp thời ngăn cản mà cổ võ để làm tăng thêm lòng ghen  và hành động trở nên mạnh bạo hơn trong những con người đó. Qủa thực khi xem những Clip bạo lực học đường, tôi lấy làm tức giận và lên án cách kịch liệt những con người ở xung quanh không một sự găn cản cách mãnh liệt mà còn dùng phương tiện truyền thông để ghi lại làm trò cười. Qủa thực trong những vụ sẩy ra cho học sinh, những người lớn ở xung quanh mà can ngăn cách mãnh liệt thì làm sao có thể dẫn đến những hậu quả đau thương cho những vụ đó, có những em đã gánh lấy chấn thương và mang theo suốt cuộc đời vì sự thờ ở lãnh đạm của con người xung quanh. Thế giới này, cần có những con người biết bỏ đi cái tôi của mình để cho sự việc được trong sáng hơn. Qủa thế, khi sự việc sẩy ra nếu có người ngăn cản chắc chắn người trong cuộc sẽ phải cảm ơn những người đó. Trong một trấn chiến thì cả hai đều không thể làm chủ mình, không có tiếng nói thật cho cả hai mà lúc này cần những người xung quanh hơn bao giờ hết để đánh thức bản tính người trong con người đó để họ có thể nhanh chóng kìm nén cơn ghen và trở về với giá trị thật của lời nói.
        Một điều chắc chắn khi những người xung quanh ngăn cản, thì người trong cuộc đặc biệt là những người thắng thế trong vụ đó sẽ cho ta những câu trả lời rất chát chúa như “đây không phải là việc của Chú hay cô, hãy tránh ra”. Người ta thường bảo giận cá chém thớt nên trong những tình huống đó người trong cuộc chỉ có một ý nghĩ duy nhất là trút dạ trên những người này, và những lời người đó nói ra toàn là những lời tức giận và nếu chúng ta ngăn cản cách mãnh liệt điều chắc chắn chúng ta cũng sẽ nhận những lời thọa mạ hay những cú đấm nào đó. Chính vì nghĩ như thế nên những người xung quanh không có sự ngăn cản cách mạnh liệt và cứ để cho sự việc đó diễn ra và nhận lãnh những hậu quả khôn lường từ những vụ sô sát đó.
        Ngược lại những người đã bị thất thế thì không có phương thế nào có thể chống cự, người đó kháo khát một người nào đó ở xung quanh có thể đứng lên ngăn cản và bệnh vực mình, để ngăn cản cơn “ghen” của đối phương.
4/ Kết luận
        Bao lực học đường phản ánh thực trạng nền đạo đức đang xuống cấp cách trầm trọng. Đẩy con người vào sự vô cảm, lãnh đạm trước các sự việc đang diễn ra. Xã hội thay đổi nên con người cũng phải thay đổi đề phù hợp với đà tiến. Đối với học sinh, sinh viên, đây là lứa tuổi nhậy bén và dễ hấp thụ nhất đối với sự biến chuyển này. Học cái tốt thì ít nhưng học cái xấu thì rất nhanh. Chính vì thế ngay khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường các em đã thể hiện tình yêu cách mạnh liệt. Đây không phải là tình yêu đơn phương nhưng là tình yêu của một thân xác. Khi tình yêu người ta dành cho nhau mà không được đáp trả thì tính “ghen” tự bản chất nổi lên trong con người đó và cho rằng người đó đã súc phạm đến tình yêu của họ. Chính vì thế từ tình yêu chuyển sang tình ghen để nhưng ai đến với con người đó họ đều cho rằng đã chiếm mất tình cảm người đó dành cho mình và tìm cách triệt hạ để không còn có ai đến với họ nữa. Khi sự việc sẩy ra thì điều cần hơn bao giờ hết đó là những người xung quanh. Chính những con người này là bức tường găn cản và giải hòa giữa chúng. Chúng ta hãy bỏ quan niệm “mất trâu mới lo làm chuồng”. Chúng ta phải mãnh mẽ cản ngăn để cho sự việc có thể bớt đi phần nào những hậu quả sau khi sự việc đó sẩy ra. Mến chúc tất cả mọi người khi đọc được bài này phần nào có thể giúp ngăn cản được những sự việc sẽ diễn ra trong cuộc sống.   
                                                                                                                 

                                                                                                                 Vinh Thanh 15/11/2015
       

Thứ Bảy, 24 tháng 10, 2015

TẦM QUAN TRONG CỦA ĐÔI MẮT

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô:( Mc 10, 46-52)
46 Khi ấy, Đức Giê-su và các môn đệ đến thành Giê-ri-khô. Khi Đức Giê-su cùng với các môn đệ và một đám người khá đông ra khỏi thành Giê-ri-khô, thì có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường, tên anh ta là Ba-ti-mê, con ông Ti-mê. 47 Vừa nghe nói đó là Đức Giê-su Na-da-rét, anh ta bắt đầu kêu lên rằng: "Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!" 48 Nhiều người quát nạt bảo anh ta im đi, nhưng anh ta càng kêu lớn tiếng: "Lạy Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương tôi!" 49 Đức Giê-su đứng lại và nói: "Gọi anh ta lại đây!" Người ta gọi anh mù và bảo: "Cứ yên tâm, đứng dậy, Người gọi anh đấy!"50 Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giê-su. 51 Người hỏi: "Anh muốn tôi làm gì cho anh? " Anh mù đáp: "Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được." 52 Người nói: "Anh hãy đi, lòng tin của anh đã cứu anh!" Tức khắc, anh ta nhìn thấy được và đi theo Người trên con đường Người đi..    
Đó là lời Chúa.
          Qua bài Tin Mừng này sẽ được chia sẻ những ý như sau:
1/Làm sao ta có thể thương người mù? Người đời thường nói: Muốn quý sự tự do thì phải ở tù một thời gian ngắn. Muốn quý sức khỏe thì phải nằm nhà thương mấy ngày. Muốn biết thương người mù thì phải chịu đau mắt vài bữa . Người mù không chỉ khổ ở thân xác mà còn khổ cả tâm hồn. Người mù không được nhìn thấy cảnh vật thiên nhiên, không thể nhìn thấy gương mặt người thân mà còn sống mặc cảm vì mình bị lệ thuộc kẻ khác và bị xã hội loại bỏ.
2/ Ý bài Phúc Âm Chúa muốn dạy gì? Hôm nay, Chúa chữa cho một anh mù ngồi ăn xin ở vệ đường, anh là kẻ thật đáng thương, anh đã thống thiết kêu van xin Chúa: Lạy thầy, xin cho con được sáng. Chúa đã nhậm lời và tức thì mắt anh được sáng. Ai trong chúng ta cũng bị chứng mù tối lương tâm, chúng ta hãy mau chạy đến và kêu xin Chúa.
3/Với tia sáng đầu tiên của đôi mắt, anh đã thấy thấy ai trước? Chúa Yesus đã đến để thắp sáng đời anh, khuôn mặt đầu tiên anh thấy chính là Đức Yesus. Anh đã mù đôi mắt thể xác nhưng lại sáng đôi mắt tâm hồn, đôi mắt đức tin. Anh đã thấy Chúa là Đấng cứu thế khi anh gọi Ngài là con vua David.
4/Con mắt đức tin đã giúp gì cho anh? Nhờ có con mắt Đức Tin, anh mù đã chẳng biết sợ lời người ta cấm cản. Người ta càng đe dọa anh càng la lớn để xin thống thiết hơn.
5/Anh thể hiện thái độ từ bỏ như thế nào? Với đôi mắt Đức Tin, anh đã dứt khoát đứng lên, rời bỏ chỗ ngồi thụ động, anh đã vứt bỏ chiếc áo choàng là phương tiện hành nghề anh dùng để nhận quà tặng và cũng là vật duy nhất anh nương tựa vào ban đêm / anh đã cởi bỏ đời sống ăn xin, ăn bám, chùm gởi, từ bỏ thân phận mù lòa, thoát khỏi đời sống tối tăm, chạy đến miền ánh sáng đem lại sự sống.
6/Hằng ngày chúng ta cần cầu xin điều gì? Trong cơ thể chúng ta, bộ phận nào cũng đáng quý, nhưng đôi mắt là bộ phận cần thiết và đáng quý nhất. Bởi thế, chúng ta cần phải luôn cầu xin : lạy Chúa, con tạ ơn Chúa vì đã ban cho con đôi mắt. Xin Chúa gìn giữ đôi mắt của con. Xin Chúa hãy mở đôi mắt tâm hồn để con luôn thấy Chúa. Đôi mắt của chúng ta phải thấy những điều cần thấy, đừng giả bộ hoặc cố ý không thấy, kẻo rồi có ngày Chúa thấy đôi mắt của ta không mang lại lợi ích gì và Chúa sẽ cất đi. Lúc đó chúng ta sẽ không kịp hối hận. Hãy mở to đôi  mắt để thấy những anh em nghèo khổ chung quanh mình .
7/Chúng ta có mắt sáng để làm gì? Hãy xin Chúa cho đôi mắt tâm hồn được sáng, để chúng ta thấy Chúa tốt lành, thấy anh em thật dễ mến, dễ thương, thấy những con người nghèo đói cần chúng ta qua tâm chia sẻ. Thấy mình nhỏ bé yếu đuối để có thể sống khiêm hạ trước mặt Chúa.
8/Phân tích về nhiệm vụ của đôi mắt: Mỗi con mắt có 2 phần chính: a) Thị giác ; b) thị lực;
a) Thị giác : là khả năng thấy của đôi mắt .
b) Thị lực : là mức độ mà đôi mắt ấy có thể thấy nhiều hay ít, xa hay gần, rõ hay mờ. Người cận thị chỉ thấy thật gần, người viễn thị chỉ thấy ở xa hơn. Cho nên thị giác tốt thôi chưa đủ, mà còn cần phải có thị lực thật tốt. Như thế công dụng của mắt mới hoàn chỉnh.
9/Nghĩa bóng của thị lực là gì? Thị lực tốt là có thể nhìn thấy xuyên suốt những vật cản, như Chúa Yesus thấy ông Nathana-en đang ở dưới gốc cây vả, Chúa cũng thấy được tấm lòng bà góa khi bà bỏ đồng xu vào thùng tiền đền thờ. Chúa thấy cả tấm lòng tan nát của chị phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đang chờ Chúa xét xử . Chúa thấy cả đức Tin của người phụ nữ Cana-an.
10/Thị lực của anh mù tốt đến mức độ nào?: Điều nghịch lý là tuy anh mù nhưng anh lại có thị lực thật tốt. Vì anh đã thấy Đức Yesus là Đấng Messia, là con vua David,còn đám đông trong đó có các môn đệ  lại chỉ thấy Chúa là một anh thợ mộc ở Nazaret.
11/Thế nào là đôi mắt tốt? Đôi mắt tốt là đôi mắt sáng, là đôi mắt có thể nhìn thấy những thứ mà người khác không thấy, không phải ai có đôi mắt tốt thì cũng có thị lực tốt cả đâu. Nhiều người có đôi mắt to nhưng lại thấy rất ít, còn nhiều người có đôi mắt nhỏ hơn nhưng vì sâu sắc nên họ có thể nhìn thấy nhiều hơn. Vì thế, chúng ta hãy xin Chúa : Thưa Thầy, Xin cho con được thấy .
12/Thái độ của chúng ta với người mù: Ở đời chúng ta thấy có rất nhiều người bị tàn tật. Trong số họ có những kẻ tàn tật do bị tai nạn, một số khác do bị từ lúc mới sinh . Chúng ta thường có thái độ khác nhau khi đối diện với những người này: trẻ con thì chọc nghẹo, người lớn thì ngậm ngùi thương hại ,xa lánh , người thân của kẻ tàn tật thì đau khổ, xót xa.
13/Một tội phạm nhưng lại được tha bổng: vào năm 1962, tại thành phố Liè-ge (Bỉ) một người mẹ sinh ra một đứa con có hình dáng một con vật. Bà quá đau đớn nên đã giết chết nó. Người ta đưa bà ra tòa vì tội giết con mình. Nhưng sau đó tòa án đã tha bổng cho bà vì họ thông cảm với nỗi đau của bà và nỗi đau của đứa con nếu nó còn sống và phải gánh chịu thân phận như vậy .
14/Những bất công của người đời: Ngoài những thái độ chọc nghẹo, tội nghiệp và thương xót đó, người Ki-tô hữu suy nghĩ coi mình còn có cách nào tốt nữa không? Thưa có, đó là hãy suy nghĩ về những bất công của cuộc đời, ngẫm nghĩ chúng ta thấy cuộc đời có quá nhiều bất công, có người sinh ra đã giàu có, mạnh khỏe, xinh đẹp, có người vừa sinh ra đã tàn tật, xấu xí, nghèo khổ. Người sinh ra trong gia đình giàu rất dễ đạt được thành công, còn một người sinh ra mà đã tàn tật ngu đần thì làm sao có thể ngóc đầu lên được? Thử hỏi: bản thân họ đã làm gì nên tội? Nếu họ không có tội mà phải chịu thiệt thòi thì rõ ràng là một sự đáng thương .
15/Chúng ta cần làm gì với những bất công? Có bất công thì đòi hỏi phải sửa lại cho công bằng. Cũng có khối trường hợp bất công nhưng không thể sửa lại cho công bằng được. Như trường hợp bà mẹ Bỉ kia đẻ ra quái thai, hoặc như anh mù từ thuở mới sinh. Hôm nay, cho dù bà mẹ có giết chết con mình thì như thế cũng chưa thể đạt được sự công bằng. Còn nếu không giết mà bà cố gắng nuôi nấng cưng chiều nó đủ thứ. Nhưng như thế đã đủ công bằng chưa? Cho dù có chăm sóc bao nhiêu thì cũng chỉ là xoa dịu phần nào thôi chứ không thể bù đắp cho nó những thiệt thòi như một con người bình thường được. Bất công cũng cứ là bất công thôi.
16/Một thế giới công bằng ở đâu? Chính vì sự bất công, và sự không công bằng ở đời này giúp cho ta tin rằng : Phải có một thế giới công bằng đâu đó ở đời sau. Bởi vì nếu mọi sự kết thúc tại đây thì thật là chua xót quá đối với những kẻ có số kiếp tàn tật. Thà họ không được sinh ra thì  hơn. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng, Ngài không thể nào tàn nhẫn đến độ chỉ tạo họ ra chỉ để cho họ chịu đau khổ.
17/Vì sao phải có đời sau? Suy xét như thế nên chúng ta càng tin chắc có đời sau, Khi đó mọi sự bất công sẽ không còn, những ai đã từng chịu thiệt thòi sẽ được bù đắp xứng đáng. Lúc ấy công bình sẽ được thực hiện trọn vẹn.
18/Thánh Vịnh 125 nói lên điều gì? Thánh Vịnh này nói lên những lời cầu nguyện đầy tin tưởng của những kẻ xấu số đang kêu lên cùng Chúa : Lạy Chúa, xin hãy đổi số phận cho con, như những dòng suối ở miền nam. Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan.
19/Chúa Yesus đã hứa hẹn ngầm như thế nào? Khi Chúa Yesus đưa tay cứu chữa anh mù trong bài Tin Mừng hôm nay. Điều này đã được tiên tri Gieremia báo trước trong bài thánh thư hôm nay: Ta sẽ lấy lòng từ bi mà dẫn dắt những kẻ đui mù, què quặt…
20/Ta phải làm gì trước những cảnh bất công? Những cảnh bất công gây cho ta lòng thương cảm và cũng chính lúc này đây mà ta tin chắc có đời sau sẽ công bằng hơn, sẽ hoàn hảo hơn, sẽ hạnh phúc hơn. Ở đời này luôn có những cảnh bất công mà con người không tài nào bù đắp được khiến cho loài người luôn mơ tới một cõi khác không còn bất công nữa .
21/Phép lạ hôm nay minh chứng cho điều gì? Qua phép lạ Chúa chữa cho người mù. Chúng ta vững tin rằng Chúa có thể tạo ra một cõi đời hạnh phúc hơn. Như vậy phép lạ hôm nay là bằng chứng sẽ có một cõi đời sau hoàn hảo hơn, đây chính là niềm tin nơi người Kito hữu .
22/Cảm nhận thế giới qua đôi tay của người mù: Hellen Keller, một cô gái mù từ lúc 19 tháng tuổi. Cô ta tâm sự: Một hôm có một người bạn vừa đi dạo trong rừng về, tôi hỏi xem cô ấy đã thấy gì? Cô đáp: Chẳng có gì hay cả! Tôi ngạc nhiên tự nhủ: Làm sao có thể như thế được? Bản thân tôi vừa mù, vừa điếc mà khi tôi đưa tay cầm chiếc lá, tôi vẫn có thể cảm nhận được hàng trăm điều kỳ diệu, thích thú quanh tôi như là hình dáng dễ thương, sự mềm mại của chiếc lá, chỉ cần đặt tay lên cành cây, nó rung lên là tôi có thể nhận ra tiếng ríu rít của loài chim.
23/Tóm kết: Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy rằng: Bất hạnh lớn nhất không phải là bị mù, mà là có đôi mắt mở to nhưng lại không thấy gì. Chính vì có những con người như thế nên họ chẳng thể nào nhận ra sự kỳ diệu nơi Thiên Chúa, và Thiên Chúa đã yêu họ nhiều như thế nào, nhưng vì quá vô tình, cố tình không thấy nên chẳng bao giờ họ dám mở miệng ra ca tụng Thiên Chúa.

Yuse Luca/ Trưởng Nhóm Kinh Thánh Emmaus

http://ditimchanly.org/

Thứ Bảy, 17 tháng 10, 2015

TRUYỀN GIÁO TRONG XÃ HỘI NGÀY NAY

Đề tài này Đức Cha nêu lên 2 điểm chính yếu để nói về vấn đề truyền giáo này: 1) Một số hoàn cảnh cần chú ý đặc biệt trong việc dấn thân truyền giáo; 2) Khơi dậy nhiêt huyết truyền giáo
I. MỘT SỐ HOÀN CẢNH ĐÒI HỎI SỰ CHÚ Ý ĐẶC BIỆT
Trong môi trường xã hội Việt Nam hiện nay, có rất nhiều nhu cầu truyền giáo, nhưng có lẽ cần để ý đặc biệt đến ba khía cạnh sau đây:
1. Dân chúng tại các thành thị
Khi nói đến công tác truyền giáo, người ta thường nói đến “vùng sâu, vùng xa” và nói đến dân nghèo, trẻ em bị bỏ rơi. Dĩ nhhiên đây là một thành phần rất đáng được để ý, nhưng đối tượng cần được chú ý hơn trong công tác truyền giáo có lẽ là những người sống tại các thành thị, nhất là giới trí thức và giầu có. Một đàng vì họ là những người có khả năng chi phối cuộc sống của xã hội, đàng khác, chính những người nghèo và dân sống vùng thôn quê cũng ngước nhìn lên họ với lòng ao ước và thèm khát, muốn bắt chước họ. Chính thông điệp “Redemptoris Missio” cũng xác định điều này: “Trong quá khứ, công tác truyền giáo thường được thực hiện nơi những vùng xa xôi hẻo lánh, cách xa những trung tâm sinh hoạt và khó khăn về giao thông, về tiếng nói và về khí hậu. Hôm nay hình ảnh truyền giáo có lẽ đang thay đổi: điều đáng chú ý có lẽ phải là những thành phố lớn, nơi phát sinh những phong tục và mẫu sống mới, những hình thức văn hóa và truyền thông mới có ảnh hưởng lớn đến dân chúng. Dĩ nhiên “sự lựa chọn những kẻ rốt cùng” không cho phép chúng ta làm ngơ đối với những nhóm người sống bên lề xã hội, nhưng cũng phải nhớ là không thể rao giảng Tin Mừng cho những cá nhân hay nhóm người thấp hèn, nếu bỏ qua những trung tâm nơi phát sinh, có thể nói, một nhân loại mới với những mẫu phát triển mới. Tương lai của các quốc gia trẻ đang thành hình tại các thành phố.” (Rm, 37).
2. Dân chúng sống trong các tòa nhà cao ốc
Ở nhiều nơi nhưng đặc biệt ở những thành phố lớn như Hà Nội, Saigòn và cả Bà Rịa, Vũng Tầu, người ta thấy đang mọc lên đầy dẫy những tòa nhà cao ốc và những khu dân cư dành riêng cho người giầu, những chuyên viên, những thương gia. Đa số những người này là anh chị em lương dân. Đây sẽ là những thế giới riêng biệt và những người sống trong những môi trường này sẽ tách mình khỏi những sinh hoạt và liên hệ bình thường để trở thành những ốc đảo riêng tư. Làm sao để tới được những người trong môi trường này và làm thế nào để có thể đem Tin Mừng của Chúa đến cho họ? Đây là một vấn đề rất lớn của công việc truyền giáo trong tương lai và đòi hỏi một suy tư để tìm câu trả lời thích hợp ngay từ bây giờ.
3. Hiện tượng di dân
Một môi trường mới khác đang trở thành một thách đố lớn lao cho công tác truyền giáo là môi trường của hiện tượng di dân. Thực ra hiện tượng di dân đã được nhiều người nói đến từ lâu, nhưng thường được nhìn dưới góc cạnh kinh tế, xã hội, luân lý. Ở đây, chúng ta nhìn vấn đế dưới góc cạnh truyền giáo.
Hiện tượng di dân đặt ra nhiều vấn đề cho Giáo Hội và xã hội, nhưng đối với sứ mệnh truyền giáo, đây lại là một cơ hội lớn. Qua hiện tượng di dân, Giáo Hội không cần đi tìm đồng bào lương dân, nhưng chính đồng bào lương dân đến với Giáo Hội và họ ở trong tư thế sẵn sàng đón nhận những nghĩa cử của tình yêu, của lòng thương mến. Đây là dịp may để Giáo Hội loan báo Tin Mừng tình yêu của Chúa đối với nhân loại khổ đau và thiếu thốn. Một khi người ta đã ổn định, có gõ cửa người ta cũng không mở! Nhưng xem ra, Giáo Hội đang để lỡ những cơ hội bằng vàng.
II. ĐÀO TẠO TÔNG ĐỒ TRUYỀN GIÁO
Vấn đề sau cùng chúng ta phải đặt ra là việc đào tạo tông đồ truyền giáo. Bất cứ làm công việc gì cũng cần phải được huấn luyện. Công tác nào càng khó khăn và tế nhị càng đòi hỏi công việc huấn luyện phải kỹ càng và cẩn thận hơn.
1. Những yếu tố căn bản của việc đào tạo
Các yếu tố của công việc huấn luyện các tông đồ truyền giáo thì rất nhiều, nhưng chúng ta có thể sắp xếp lại theo 3 phương diện: Thần học, Mục vụ và Tu Đức.
a) Thần học
Nhà thừa sai truyền giáo có thể đi đến khắp nơi, làm trăm ngàn công việc, tùy theo nhu cầu của hoàn cảnh hoặc tùy theo công tác được trao phó và khả năng riêng của cá nhân mình. Tuy nhiên, cho dù đi đâu, làm việc gì, nhà thừa sai truyền giáo cũng có sứ mệnh phải truyền đạt một sứ điệp chính yếu: Thiên Chúa yêu thương nhân loại, đã xuống thế và đã chịu chết và sống lại để ban sự sống cho nhân loại. Do đó,  cần phải hiểu thấu đáo sứ điệp và mục đích của nhiệm vụ.
b) Mục vụ
Khía cạnh mục vụ nhắm đến đối tượng của việc truyền đạt sứ điệp. Tuy cùng một sứ điệp, cách truyền đạt sứ điệp phải tùy theo đối tượng  Vì vậy, cần phải hiểu đối tượng của công tác truyền giáo trong bối cảnh tôn giáo, văn hóa, chủng tộc, lịch sử, tuổi tác của họ.
c) Tu đức
Mỗi công việc, mỗi nhiệm vụ đòi hỏi phải có những đức tính, những tư cách và thái độ  thích hợp. Đây là khía cạnh tu đức, gồm cả những yếu tố nhân bản và thiêng liêng.
Trong ba yếu tố trên đây, yếu tố tu đức, hiểu là hành trình nên thánh, phải được coi là yếu tố nền tảng. Theo thông điệp “Redemptoris Missio”, “việc canh tân công cuộc truyền giáo đòi phải có những thừa sai thánh thiện. Chỉ canh tân phương pháp truyền giáo hay tổ chức và phối kết các sức lực của Giáo Hội cách hiệu quả tốt đẹp hơn thôi thì chưa đủ, hoặc nghiên cứu cho chính xác hơn các nền tảng thánh kinh và thần học về đức tin thôi cũng không đủ. Cần phải khơi dậy lòng hăng say nên thánh nơi các thừa saia truyền giáo và tất cả cộng đoàn Dân Chúa, đặc biệt nơi những người cộng tác gần gũi với các thừa sai truyền giáo. Ta thử nghĩ đến nhiệt tâm truyền giáo nơi những cộng đoàn kitô hữu đầu tiên. Mặc dầu thiếu thốn phương tiện di chuyển và thông tin của thời đại đó, Tin Mừng của Chúa đã tới tận cùng bờ cõi thế giới trong một thời gian ngắn và mặc dầu đó là tôn giáo của Con Người chết trên thập giá, là ‘sự xúc phạm đối với người Do Thái và sự điên rồ đối với dân ngoại’! Nền tảng của tất cả bầu nhiệt huyết truyền giáo là sự thánh thiện của các tín hữu và của các cộng đồng các tin hữu đầu tiên” (RMi, 90).
Chúng ta có thể diễn tả hành trình linh động huấn luyện theo mô hình dưới đây:
I
II
III
Thần học
Tu đức
Mục vụ truyền giáo
Học hỏi để hiểu thấu đáo Sứ Điệp sẽ loan truyền
Biến đổi cuộc sống nhờ ánh sáng và sức mạnh của Sứ Điệp
Truyền đạt Sứ Điệp với kinh nghiệm sống
2. Khơi dậy ngọn lửa truyền giáo
a) Lắng nghe lời ký thác của Chúa
– “Các con sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđêa, Samaria và cho đến tận cùng bờ cõi trái đất” (Cv 1,8).
– “Phải nhân danh Thầy mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính chúng con là chứng nhân về những điều này.” (Lc 24,47-48).
– “Vậy các con hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho các con” (Mt 28,19-20).
– “Các con hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo” (Mc 16,15).
– “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21).
– “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên! Thầy còn một phép rửa phải chịu, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất!” (Lc 12,49-50)
b) Học theo kinh nghiệm của các Tông đồ
– Ga 20,19: “Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói : ‘Bình an cho anh em !’ Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông : “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.”  Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.’
– Cv 2,1-41: “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho… Bấy giờ, ông Phê-rô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với họ rằng : “Thưa anh em miền Giu-đê và tất cả những người đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem, xin biết cho điều này, và lắng nghe những lời tôi nói đây. Không, những người này không say rượu như anh em nghĩ, vì bây giờ mới là giờ thứ ba. Nhưng đó là điều đã được ngôn sứ Giô-en nói đến:  Thiên Chúa phán: Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ đổ Thần Khí Ta trên hết thảy người phàm, con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, thanh niên sẽ thấy thị kiến, bô lão sẽ được báo mộng. Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ Thần Khí Ta cả trên tôi nam tớ nữ của Ta, và chúng sẽ trở thành ngôn sứ. Ta sẽ cho xuất hiện những điềm thiêng trên trời cao, và những dấu lạ dưới đất thấp, đó là máu, lửa và những cột khói.  Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng hoá thành máu, trước khi ngày của Đức Chúa đến, ngày vĩ đại, vinh quang. Bấy giờ hết những ai kêu cầu danh Đức Chúa, sẽ được ơn cứu độ…”.
3. Một mẫu gương truyền giáo: Thánh Gioan Phaolo II
Trong thời đại chúng ta, một khuôn mặt sáng ngời, lôi cuốn đông đảo dân chúng và cũng có thể nói là hình ảnh của thánh Phaolô, Tông Đồ Dân Ngoại, là ĐTC Gioan Phaolô II đáng kính. Suốt 26 năm trong sứ mệnh chủ chăn Giáo Hội Hoàn Vũ, ngài đã vượt trùng dương loan báo Tin Mừng cho mọi dân tộc, mọi tầng lớp. Chính cái chết của ngài cũng là một lời loan báo Chúa Giêsu một cách hùng hồn. Chắc chắn mọi người đã theo dõi đầy đủ các tin tức và hình ảnh chung quanh cái chết và Thánh Lễ an táng của ngài. Con xin được nhắc lại đây 4 sự kiện:
– Ngay sau khi ngài qua đời, không ai bảo ai, không ai tổ chức, tự nhiên dân chúng ùn ùn kéo về đền thờ Thánh Phêrô kính viếng thi hài của ngài. Người ta nói là có chừng 4 triệu người. Để có thể vào đền thờ, đi qua trước thi hài của ngài trong giây lát, người ta phải nối đuôi chờ đợi 12 giờ, hay có thể 14 giờ đồng hồ, chịu đựng ban ngày trời nóng, ban đêm khí hậu lạnh. Họ là mọi thứ bậc người: đàn ông, đàn bà, già, trẻ, lớn, bé; họ là các giáo hữu, con cái của Giáo Hội Công Giáo, nhưng cũng có nhiều người thuộc các giáo hội Chính Thống, Tin Lành và ngay cả các tín hữu của các tôn giáo khác như Hồi Giáo, Ấn Giáo, Phật Giáo, và có thể cũng có những người vô thần hoặc thù địch với Tin Mừng của Chúa…
– Hiện diện trong Thánh Lễ an táng, có đầy đủ thủ lãnh các quốc gia và của các tôn giáo. Họ xin đến chứ không phải được mời và họ phải ngồi ở hàng ghế đã được Toà Thánh xếp theo vần thứ tự tên các nước theo tiếng Pháp. Cho nên có sự kiện thủ lãnh các quốc gia kình địch với nhau ngồi bên nhau và cũng bắt tay chào hỏi nhau!
– Các hãng truyền hình đã đồng loạt loan báo tin tức về cái chết và các sự kiện diễn tiến sau khi ngài qua đời. Có những đài truyền hình phát hình 24/24 giờ một ngày.
– Cỗ quan tài gỗ trơn đơn sơ được đặt nằm ngay trên nền của công trường đền thờ Thánh Phêrô.
– Trong Thánh Lễ, tự nhiên có một cơn gió mạnh nổi lên, tư từ lật mở từng trang, từ đầu đến cuối cuốn Thánh Kinh đặt trên quan tài của ngài. Cái chết của ĐTC Gioan Phaolô II là một lời loan báo hùng hồn và vĩ  đại về Chúa Giêsu. Ngài đã lôi kéo bao nhiêu người, không phải chỉ những người về Roma, mà còn bao nhiêu người theo dõi tin tức và các lễ nghi qua các phương tiện truyền thông. Sức mạnh nào đã lôi kéo người ta, đoàn lũ đông đảo như vậy? Sức mạnh nào đã qui tụ được các thủ lãnh các quốc gia và đại diện các tôn giáo và có sức hoà giải tất cả như vậy?
Đây không thể là kết quả của sức người phàm, nhưng phải là sức mạnh linh thiêng của Thiên Chúa, có sức thúc đẩy, hàn gắn và qui tụ lòng người. Về phía ĐTC Gioan Phaolô II, ngài đã là một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Thiên Chúa, diễn tả qua khẩu hiệu của ngài: “Totus Tuus”. “Tất cả con là của Mẹ” và phần thứ II hiểu ngậm: “để tất cả con thuộc về Chúa Giêsu”. Yếu tố quan trọng ở đây nằm ở chữ “Totus”, có nghĩa là “tất cả”, ‘trọn vẹn”.
Cỗ quan tài bằng gỗ đơn sơ đặt trên nền công trường đền thờ Thánh Phêrô cũng kéo sự chú ý của nhiều người. Lý do không phải vì nói lên sự nghèo khó. Nghèo khó thì có gì mà hấp dẫn? Sức hấp dẫn nằm ở sự lựa chọn của ngài, là lý do của sự nghèo hèn đơn sơ: Ngài đã chọn duy chỉ mình Chúa, đã sống hoàn toàn cho Chúa và vì Chúa. Đúng là “Totus Tuus”. Chính vì thế, qua sự nghèo hèn và đơn sơ của ngài, Chúa đã thể hiện được tất cả sức mạnh của ơn thánh và tình yêu của Người.
Sự kiện cơn gió nổi lên, như thể một ngón tay từ từ lật giở từng trang, từ đầu đến cuối của cuốn Thánh Kinh đặt trên cỗ quan tài: có người cho đó là  tình cờ, người khác cho đó là sự can thiệp trực tiếp của Chúa. Ai muốn cắt nghĩa theo chiều hướng nào tùy ý. Nhưng sự kiện đó có nói lên một điều quan trọng của cuộc đời thiêng liêng của ĐTC Gioan Phaolô II. Đó là ngài đã sống theo Tin Mừng; cuộc đời của ngài đã được thấm nhuần bằng Lời Chúa; ngài đã sống theo tất cả sứ điệp Ơn Cứu Độ. Đúng là “Totus Tuus”.
Sự kiện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn một khía cạnh tế vi của tinh thần truyền giáo của thánh Phaolô, Tông Đồ Dân Ngoại. Đó là sự dâng hiến tất cả cho Chúa không phải chỉ có nghĩa là sẵn sàng từ bỏ tất cả vì Chúa và chịu thiệt thòi vì Chúa, mà còn có nghĩa là để cho lòng mình được thay đổi theo tinh thần của Chúa và mọi khía cạnh của con người mình đều được thấm nhuần bằng tinh thần của Chúa Giêsu để trở thành hương thơm của Người như lời ngài viết trong thư gửi giáo đoàn Corintô: “Tạ ơn Thiên Chúa, Đấng cho chúng ta tham dự cuộc khải hoàn trong Chúa Kitô, và đã dùng chúng tamà làm cho hương thơm của sự nhận biết Chúa Kitô lan toả khắp nơi trong thế giới. Thực vậy, chúng ta là hương thơm của Chúa Kitô dâng kính Thiên Chúa, toả ra giữa những người được cứu độ cũng như những kẻ bị hư mất.” (2Cor 2,14-15).
Ước chi trong hàng ngũ linh mục, những người tận hiến trọn cuộc đời để phục vụ Chúa trong ơn gọi linh mục, có nhiều người là hiện thân của thánh Phaolô, là những môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, hay nói theo cách diễn tả dân gian, là những vị chân tu, đã được thấm nhuần tinh thần của Chúa Giêsu nên làm lan tỏa những mùi hương thơm của Người để ướp thế gian. Gặp được một linh mục là người ta ngửi được một mùi thơm ngào ngạt: “mùi Giêsu”.
Thay kết luận
Từ một con tim và khối óc được chiếu soi và thiêu đốt bởi lòng khao khát thấy toàn thế giới nhận ra được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế của họ và hạnh phúc sống trong tình nghĩa với Ngài, chắc chắn sẽ phát sinh những sáng kiến truyền giáo. Có biết bao nhiều cơ hội vàng ngọc để truyền giáo đã bị bỏ qua! Có biết bao anh chị em lương dân sống ngay bên cạnh mà mình không ý thức. Vì vậy, nếu các cha cho phép, tôi xin được kết bài chia sẻ này với mấy câu mời gọi:
Hỡi anh em linh mục,
Hãy say mến Chúa Giêsu
Hãy tỉnh dậy,
Hãy chỗi dậy
Hãy lên đường, đi chia sẻ niềm vui của những người say mến Chúa Giêsu với những anh chị em chưa có hạnh phúc này.
Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo
Giám mục phó Giáo phận Xuân Lộc

(Nguồn http://catechesis.net/)