Thứ Bảy, 11 tháng 3, 2017

GIỚI TRẺ CÔNG GIÁO VIỆT NAM TRƯỚC NHỮNG THÁCH ĐỐ ĐỨC TIN

Anton Nguyễn Công Chính
Con người ngày hôm nay đang sống trong một xã hội phát triển về mọi mặt. Ngồi một chỗ có thể biết được mọi thứ xung quanh mình. Từ những điều đang điễn ra trên mặt đất cũng như những gì trên không trung đang hoạt động. Chính nền văn minh Thế giới đã đưa con người đến một tầm nhận thức mới. Đẩy con người từ choáng ngợp này đến choáng ngợp khác. Phải nói rằng thế kỉ XXI được mệnh danh là kỉ nguyên của toàn cầu hóa hay nói cách khác là thế kỉ của nền văn minh trí tuệ [1]. Đây chính là cơ hội để giới trẻ nói chung phát triển bản thân và kiến tạo những tử tưởng cũng như những công nghệ mới nhằm giúp ích cho nhiều người. Song song với những thuận lợi từ công nghệ của các nước trên Thế giới du nhập thì cũng không ít những luồng tư tưởng cũng như văn hóa không lành mạnh từ các nước đó. Đây là điều hiển nhiên của một quy luật qua lại giữa cung và cầu, cũng giống như “tốt và xấu” luôn luôn là hai người bạn tương giao với nhau. Chính vì thế giới trẻ nói chung và giới trẻ công giáo nói riêng đang phải đối điện với không ít những trào lưu thế tục, đẩy người trẻ đến sự lu mờ không chỉ đời sống đức tin mà ngay cả những giá trị đạo đức của con người. Đứng trước những sự biến chuyển của thời đại, các bậc làm cha, làm mẹ rất lo lắng cho con cái cả về vật chất lẫn tinh thần. Giới trẻ là thành phần dễ lĩnh hội hơn bao giờ hết, không chỉ cái tốt mà cái xấu còn học đòi nhanh hơn cả. Đối với quan niệm trước kia bạn bè là cơ hội để giúp nhau thăng tiến “học thầy không tày học bạn” nhưng đối với xã hội như ngày hôm nay thì điều này phải coi lại.
        Sống trong một xã hội với đầy biến động như hiện nay đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống đức tin của người trẻ công giáo. Thực vậy, giới trẻ ngày hôm nay có nhiều cơ hội để tạo cho mình một công việc ổn định nhưng đổi lại điều đó là sự đánh mất dần những nhân đức vốn có trong con người, đặc biệt là đức tin của người trẻ công giáo. Trong đề tài này con sẽ trình bày 3 thách thức chính, mà giới trẻ ngày hôm nay đang gặp phải hầu có thể mang lại cách nhìn chung nhất: Thách thức về kiến thức, việc làm. Thách thức về hưởng thụ. Thách thức về tình yêu.

1/ Thách thức về kiến thức, việc làm.
        Đối với xã hội ngày hôm nay, kiến thức, việc làm là nhu cầu thiết yếu của hết mọi thành phần không ngoại trừ mọi tầng lớp nào, nó là gói hành trang của một con người khi bước chân vào đời. Ta nghĩ suy gì khi nhìn thấy các em nhỏ mang trên mình một túi chất đầy sách vở, rồi lệ khệ bước đi với ổ bánh mì tới trường ?. Còn đối với các bạn sinh viên cũng thế, hằng ngày cắm cụi với một đống sách vở để bới tìm những tinh hoa quí báu của thế hệ trước đã truyền lại. Cuộc sống của họ trở nên tất bật, chật vật để chạy đua với việc tìm kiếm những kiến thức cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Đây là một cuộc chạy đua không cân sức. Các công nghệ đang từng ngày được biển đổi, đơn cử như chiếc điện thoại: từ những chiếc điện thoại rất đơn giản đi lên những chiếc điện thoại siêu hạng, thế giới dường như nằm gọn trong lòng bàn tay con người. Chính những sự thay đổi của các công nghệ thì con người càng phải ra sức để tiếp nhận và chạy đua cùng với nó để tồn tại. Thực vậy, để được nhận vào làm việc với một ngành công nghệ, xí nghiệp, công ty, thì người được ưu tiên đó chính là những người có trình độ và có bề dầy về kinh nghiệm. Mặc dù tấm bằng đối với xã hội ngày hôm nay không thể đánh giá hết được trình độ công việc của một ai đó nhưng nó rất quan trọng để khởi đầu cho việc tuyển dụng cũng như khởi đầu cho một cuộc trò chuyện sẽ diễn ra. Sau khi đã được nhận vào làm việc nhưng tay nghề không đáp ứng đủ thì trước sau con người đó cũng không thể tồn tại trong xí nghiệp hay công ty đó. Chính vì thế, kiến thức và tay nghề là đôi chân để tiến thân trong một xã hội công nghiệp hóa như hiện nay. Vì vậy, các bạn trẻ đã không ngừng học tập và trao dồi cho mình những kinh nghiệm để tiến thân. Chính điều này đã chiếm phần lớn thời gian riêng tư của các em. Các em đã không còn thời gian với gia đình, bạn bè, ngay cả thời gian ăn uống và nghỉ ngơi nữa. Các thời gian cơ bản nhất cũng bị thời gian của kiến thức xã hội dành lấy thì thử hỏi làm sao còn thời gian để các em tham gia vào các lớp giáo lý hãy những việc đạo đức khác. Cứ như thế, thời gian sẽ dần dần trôi qua, vùi lấp đức tin trong dĩ vãng. Chính Chúa Giê-su đã phải thốt lên “khi con Người đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng” (x. Lc 18,8). Đây là lời mời gọi con người nói chung và những người trẻ công giáo nói riêng hãy ý thức căn tính niềm tin của mình đừng để cho những trào lưu của xã hội lôi cuốn mà đánh mất niềm tin có nơi mình.
        Qủa vậy, những người trẻ công giáo ngày hôm nay không những mất đức tin mà còn chối cả đức tin đã lãnh nhận. Điều này cho ta thấy, nhiều bạn trẻ công giáo đã vì danh lợi của mình nên đã ngang nhiên chối bỏ đức tin ngay trong chứng minh nhân dân của mình. Đây là một vấn đề đang ngày càng phổ biến ở những người trẻ. Chính Chúa Giê-su đã lên án điều này và cũng cho thấy thuyết nhân quả của đức tin người công giáo “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyến bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10,32-33). Điều này như là một lời mách bảo và thúc dục người trẻ công giáo hãy làm chứng cho niềm tin của mình bằng bất cứ giá nào. Mọi thứ xung quanh chỉ góp phần cho cuộc sống này và cộng tác với Chúa trong công trình sáng tạo của Ngài. Tất cả là ánh sáng do đức tin mang lại [2].

2. Thách đố về hưởng thụ
        Bên cạnh những bạn trẻ đang miệt mài để tìm kiếm thức, việc làm, để thăng tiến bản thân cũng như góp phần làm cho xã hội ngày càng trở nên tốt đẹp hơn thì cũng không ít các bạn trẻ đang lao mình vào những trào lưu không lành mạnh mà xã hội mang tới. Trước sự phát triển không ngừng của xã hội đã kéo theo không ít những tệ nạn làm cho giới trẻ đang đứng chênh vênh trên bờ vực thẳm của chủ nghĩa vất chất, chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa cá nhân. Thực vậy, đối với giới trẻ điều tốt học thì khó, còn điều xấu không học cũng trở nên những bậc anh tài. Đây là mối lo ngại rất lớn của các bậc làm cha, làm mẹ trong vấn đề giáo dục con cái. Trong mái trường gia đình ai cũng là người ngoan ngoãn, biết vâng lời nhưng khi rời xa mái trường này thì dường như những thứ học được từ cha mẹ đã bị chồn vui trong trí nhớ để tiếp nhận những cái mới mẻ. Coi những gì đã tiếp nhận là lỗi thời, không hợp với thời đại, để rồi buông mình vào những chỗ thiếu lành mạnh từ những trang sách báo xấu cho đến những quán Karaoke, những vũ trường, quán ba thâu đêm. Tất cả nhằm thỏa mãn hay bù đắp lại những ngày tháng sống trong sự kèm cặp của cha mẹ. Khi sống trong một thế giới với sự tự do của chính bản thân mình mà không giữ vững lập trường thì rất dễ rơi vào cảnh buồn chán, chính cảnh buồn chán này sẽ dẫn đôi chân của các bạn trẻ tìm đến nơi nào đó để có thể giết thời gian cách nhanh nhất. Tất cả với suy nghĩ khám phá thế giới quanh mình và tự nhủ rằng ta đã được tự do rồi, giờ thì thích đi đâu thì đi, về lúc nào cũng được, ngủ lúc nào cũng được. Tất cả được nuôi dưỡng trong suy nghĩ và được lớn lên trong những hành động cụ thể, để rồi bước chân vào những nơi mà trước kia ta mới chỉ nghe nói mà thôi. Tất cả những hành động đó cứ thế trôi theo tháng, năm để rồi quên đi những gì ta đã lĩnh hội trước kia. Đây quả là một sự lột xác đến không ngờ. Từ đó họ phủ nhân sự có mặt của Thiên Chúa vì muốn tổ chức cuộc sống của mình theo ý riêng. Họ sẽ không nhìn nhận một luật lệ nào ngoài thứ luật lệ tự mình ban cho mình. Vì sự có mặt của Thiên Chúa có thể làm giảm bớt sự tự do tự lập ấy, nên giới trẻ đã gạt bỏ đức tin mà mình đã lĩnh hội từ trước tới nay [3]. Qủa thật, vật chất và thú vui bên ngoài đã đảo lộn tất cả những nhân đức của giới trẻ. Bởi vì, ngay từ nhỏ họ đã tiếp nhận đức tin cách hời hợt nên khi sống cùng các thế lực bên ngoài đã bị các thế lực này vùi lấp đức tin mà họ đã lãnh nhận.
        Trong thông điệp “Laudato Si” của Đức Thánh Cha Phanxico, Ngài đã dùng 2 số để nói về con người ngày hôm nay với lối sống chủ nghĩa tương đối thực dụng. Con người đã tự coi mình là trung tâm của vũ trụ “Khi con người tự đặt mình làm trung tâm, họ sẽ dành ưu tiên tuyệt đối cho sự tiện nghi trước mắt và tất cả những thứ khác trở nên tương đối” [4]. Điều này cho ta thấy rất rõ ở đời sống giới trẻ ngày hôm nay. Mặc dù với nguồn thu nhập chẳng đáng là bao nhưng trên tay hầu hết các bạn trẻ là những chiếc Iphone đời mới, để cho được bằng bạn bằng bè. Qua những chiếc Iphone đã tạo khoảng cách giữa con người với con người. Tạo cho mình một thế giới riêng tư đến trầm lắng. Sự thu hút lớn nhất của giới trẻ ngày hôm nay chính là Facebook. Giới trẻ đã dành rất nhiều thời gian vào trang Facebook này, nhằm tạo cho mình một thế giới ảo. Tất cả những gì là riêng tư nhất giới trẻ cũng có thể đẩy lên trang này để cho mọi người biết và chia sẻ. Qua đó thấy được, giới trẻ ngày hôm nay để cao tính cá nhân và sự khẳng định mình trên tất cả các lĩnh vực. Đây là một “thứ chủ nghĩa coi tất cả mọi sự là không phù hợp nếu nó không phục vụ cho những lợi ích trước mắt của con người” [5]. Giới trẻ nói chung và giới trẻ công giáo nói riêng đang áp dụng cách triệt để chủ nghĩa này trong đời sống hằng ngày. Xuất thân từ một gia đình gia giáo, lề nếp, đạo đức nhưng sau một thời gian sống tự lập đã bị bụi trần xã hội phủ lấp, thay vào đó là cách hành xử, cách ăn mặc của một thời đại “thô bạo” và một thời đại “thoáng mát”. Nhiều bạn trẻ công giáo đã trở nên “tự phụ” đối với đức tin của mình “người tự phụ muốn tổ chức cuộc sống của mình theo kế hoạch riêng, chứ không theo kế hoạch do ai khác vạch ra. Người ấy muốn tự trị và tự mãn” [6].
3/ Thách đố về tình yêu
        Mục vụ hôn nhân và gia đình cho người trẻ công giáo hôm nay trở nên rất phức tạp. Đây cũng là mối quan tâm hàng đầu của tất cả mọi thành phần trong cộng đoàn dân Chúa. Trong tài liệu làm việc của Thượng Hội Đồng Giám Mục ngoại thường III có nói “Việc công bố Tin mừng về gia đình là một phần của sứ vụ Hội Thánh, vì mặc khải của Thiên Chúa soi sáng mối liên hệ giữa một người nam và một người nữ, tình yêu của họ dành cho nhau là kết quả của mối liên hệ ấy” [7]. Qua đó cho thấy được giá trị của tình yêu nam nữ. Giới trẻ công giáo đang sống trong một xã hội tục hóa như hiện nay thì vấn đề tình yêu, hôn nhân và gia đình là điều rất lo lắng. Càng ngày giới trẻ càng đặt cho mình những câu hỏi về tương lai, vận mệnh tình yêu, hạnh phúc gia đình là gì giữa một xã hội như hiện nay và làm sao để có được một tình yêu đích thực ?. Phải nuôi dưỡng tình yêu như thế nào để cả hai bên không trở nên nhàm chán ?. Qủa thật đây là mối bận tâm của hầu hết các bạn trẻ. Thực vậy, mong muốn được hạnh phúc là điều ai cũng cần hơn cả. Tất cả mọi thứ trong xã hội đều có nhưng thiếu đi tình yêu nơi gia đình thì tất cả trở nên vô nghĩa. Tự bản chất ai cũng mong muốn cho cuộc sống của mình được bình an, hạnh phúc nhưng khi ra ngoài sống với xã hội thì dường như những ước muốn tốt đẹp đó đã bị những cơn lốc xoáy của xã hội vùi lấp. Để rồi chạy đua với thời đại, lao vào những cuộc tình ngang trái. Tình yêu đối với giới trẻ ngày hôm này trở nên quá sớm so với trước kia. Bởi vì, giới trẻ ngày hôm nay được tiếp xúc khá sớm với vấn đề tình yêu nam nữ. Điều này cho thấy ở trên tất cả các trang thông tin đều có những quảng cáo mang tính cách khiêu gợi. Trước kia hài kịch là một phương tiện giải trí và lấy được tiếng cười của các em hơn cả nhưng ngày hôm nay những tiểu phẩm hài mang tình đồi trụi khá cao. Chính vì thế hằng ngày các em luôn được tiếp xúc với những hình ảnh, sách báo mang tính chất khiêu gợi thân xác, nên đã dẫn các em đến tình trạng suy nghĩ sai lạc về tình yêu. Giới trẻ ngày hôm nay dường như coi tình yêu như là trò chơi hay một sự khám phá thế giới thân xác, theo ngôn ngữ của giới trẻ gọi là “tình yêu tốc độ”. Tình trạng sống thử trước hôn nhân đối với thời đại hôm nay khá phổ biến ở những người trẻ, mặc dù quen nhau chưa được bao nhiêu nhưng đã về chung sống với nhau như vợ chồng. Đây là điều dù ở thời đại nào cũng không thể chấp nhận được. Mọi thứ có thể thử nhưng trong tình yêu mà cũng có thể thử thì thử hỏi nhân phẩm con người ngày hôm nay ở đâu. Chính những điều này đã để lại bao niềm tiếc nuối, bỏ lại cánh cửa tương lai đang mở rộng, để đón nhận nghĩa vụ làm cha, làm mẹ khi tuổi đời còn quá trẻ, đó là chưa kể biết bao bạn trẻ đã độc ác giết chết chính đứa con của mình ngay khi còn trong lòng. Không những thế có nhiều bạn trẻ đã bỏ lại cả mạng sống trong những cuộc tình. Trước quan niệm tình yêu tốc độ đại trà như hiện nay thì đây quả là một thách đố lớn nhất của giới trẻ công giáo, không biết đâu là tình yêu đích thực để họ dành trọn cho nhau và vun trồng hạnh phúc gia đình. Một vợ một chồng là đặc tính của hôn nhân công giáo. Lập trường của Giáo hội luôn khẳng định sống thử trước hôn nhân là điều trái phép, không được làm. Thực vậy, câu nói “nam nữ thụ thụ bất thân” đâu còn áp dụng cho giới trẻ ngày hôm nay. Quan niệm tình yêu của giới trẻ ngày hôm nay phải đổi thành “nam nữ cọ cọ bên nhau”. Mặc dù tình yêu đó đến mức nào thì xa nhau về thân xác là điều không thể, hơn nữa đó là sự dâng hiến toàn bộ con người cho nhau. Đây là điều mà giới trẻ công giáo không thể nào tránh khỏi được mặc dù họ đã giữ hết mình có thể. Khi tình yêu thực sự đến thì họ phải giữ hạnh phúc gia đình như thế nào?. Trong những năm gần đây tình trạng đổ vỡ gia đình ngày càng gia tăng, mặc cho con cái trong sự bơ vơ giữa hai dòng nước. Trong hôn nhân công giáo không cho phép ly dị để lấy người khác, ngoại trừ người phối ngẫu của mình chết đi thì người này mới có quền được đi thêm bước nữa. Câu nói của Chúa Giê-su xưa sẽ luôn giữ mãi và lưu truyền qua muôn thế hệ để giữ hạnh phúc gia đình “sự gì Thiên Chúa đã liên kết loài người không được phép phân lý ” (Mt 19,6). Qua đó nói lên rằng: tình yêu, hôn nhân và gia đình là quà tặng của Thiên Chúa ban không ai có quyền lấy đi. Trong tình yêu hôn nhân và gia đình là sự cộng tác với Chúa trong công trình sáng tạo với Thiên Chúa.
4/ Kết luận
        Qua những tìm hiểu cho ta thấy được tình trạng giới trẻ ngày hôm nay nói chung đang ngày một đi xuống về đạo đức cũng như tinh thần. Cách riêng đối với người trẻ công giáo Việt Nam tình trạng đức tin đang ngày một đi xuống cách trầm trọng. Qủa thật, chính chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa cá nhân đang gặm nhấm sâu vào đời sống giới trẻ hiện nay. Giờ này, đối với họ tình, tiền, tài, là trên hết những thứ khác chỉ là những ảo tưởng không có trong thực tế. Chính điều này đã biến những người mang danh là    Ki-tô hữu trở nên khô khan, nguội lạnh đối với niềm tin của mình. Đối với họ dường như đang khao khát chờ đợi một điều gì đó khác hơn so với những lối cử hành Thánh lễ mà họ vẫn thường tham dự. Điều này cho ta thấy rất rõ trong các Thánh lễ của ngày Chúa nhật, có giới trẻ tham dự thì dường như họ đi chỉ để thỏa mãn một điều gì đó mà thôi chứ không phải tham dự Thánh lễ với niềm tin, hay một niềm xác tín có sự hiện diện đích thực của Chúa Ki-tô.




[1] Điều này được Đức Giáo Hòang  Phanxico nói rất nhiều trong Thông điệp “Laudato Si”.
[2] Điều này được Đức Giáo Hoànng  Phanxico nói trong Thông điệp “Laudato Si”.
[3] Nguyên tác “Christian Ethíc”. Thần học luân lý chuyên biệt 1. Tủ sách chuyên đề, Tr 79.
[4] ĐGH Phanxico,  thông điệp Laudato Si, 122, Tr 84.
[5] ĐGH Phanxico,  thông điệp Laudato Si, 122, Tr 84.
[6] Nguyên tác “Christian Ethíc”. Thần học luân lý chuyên biệt 1. Tủ sách chuyên đề, Tr 81.
[7] Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Những thách đố về mục vụ gia đình trong bối cảnh phúc âm hóa. http:// giaophanlongxuyen.org. Truy cập ngày 18/12/2015.

Thứ Bảy, 4 tháng 3, 2017

LINH MỤC TRONG VIỆC HỘI NHẬP VĂN HÓA GIÁO XỨ

Ant. Nguyễn Công Chính
 Trong tông huấn Ecclesia in Africa (1995), định nghĩa hội nhập văn hóa như sau: Hội nhập văn hóa là tiến trình hướng tới việc truyền giáo đầy đủ. Mục đích của hội nhập văn hóa là giúp con người sẵn sàng đón nhận Đức Giêsu Kitô cách trọn vẹn, đồng thời, biến đổi họ trên bình diện cá nhân, văn hóa, kinh tế, chính trị, ngõ hầu dẫn họ tới cuộc sống kết hiệp mật thiết với Chúa Cha qua hoạt động của Chúa Thánh Thần.[1] Dựa trên định nghĩa này, người viết muốn khai triển một khía cạnh nhỏ về  “sứ vụ linh mục trong việc hội nhập văn hóa tại các giáo xứ.” Qua đó, phần nào có thể hiểu rõ và sáng tỏ hơn định nghĩa trên và cũng cho ta thấy tầm quan trọng trong việc hội nhập văn hóa.
Có thể nói, ngoài phân biệt sự khác nhau giữa con người và các sinh vật trên mặt đất ở “lý trí,” thì còn thêm một khẳng định cho sự khác nhau này chính là “văn hóa.” Thực vậy, con người là hữu thể văn hóa.[2] Geertz cho rằng con người là sinh vật “bị treo” trên lớp mạng do mình dệt nên, trong đó, văn hóa là quan trọng nhất.[3] Con người sinh ra, ngoài việc thích nghi với môi trường sống, còn có một sự thích nghi với “văn hóa” của môi trường đó. Chính “văn hóa” này sẽ hình thành nên nhân cách, cách suy nghĩ của con người đó.
 Người viết xin được mượn câu nói của Cervanter- Tây Ban Nha, để nói về văn hóa: Hãy nói cho tôi biết, bạn của anh là ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai. Mặc đù không đúng hoàn toàn nhưng phần nào đó cũng cho ta thấy được sự tượng phản của một ai đó hình thành nên nhân cách và tính tình của người đó. Chính vì thế, ta có thể nói, con người được sinh ra trong một nền “văn hóa” như thế nào thì cũng sẽ hình thành lên sự phát triển của con người đó như vậy. Qua đó, ta thấy được mỗi nơi, mỗi vùng có một nền văn hóa khác nhau. Vì thế, ta không thể bê một nền văn hóa hoàn toàn mới lạ để áp dụng vào một nền văn hóa đã hình thành lâu đời.
 Thực vây, vấn đề hội nhập văn hóa là một công việc hết sức khó khăn và cần thiết của các nhà truyền giáo nói chung và các linh mục quản xứ trong thời đại hôm này nói riêng. Mỗi giáo xứ có một nền “văn hóa” khác nhau, chính nền “văn hóa” này đã hình thành nên nhân cách và lối sống của con người tại giáo xứ đó, nên nhiệm vụ trước tiên của linh mục khi được “sai đến” là phải tìm hiểu văn hóa của giáo xứ đó, để thích nghi với cách sống và lối suy nghĩ của những con người trong giáo xứ đó. Đây cũng là lý do người viết muốn khai triển định nghĩa trên. Qua đó thấy được vai trò của sứ vụ linh mục trong việc hội nhập văn hóa tại các giáo xứ. Từ đó, mang lại hoa trái Chúa Ba Ngôi đến từng thành viên trong cộng đoàn giáo xứ, để Chúa Ba Ngôi hằng hướng dẫn và đi vào nội tâm đời sống của mỗi người trong giáo xứ.



1/ Khái Quát Vai Trò Của Sứ Vụ Linh Mục
a/ Vai trò giảng dậy   
 Trong ngày lễ ngũ tuần, Ðức Giêsu nói với mười một tông đồ rằng: Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.[4] Đây không những là lệnh truyền của Chúa Giê-su đối với các môn đệ nhưng còn là lệnh truyền dành cho muôn thế hệ, những người đang thuộc về Đức Ki-tô qua bí tích rửa tội. Thể hiện cách rõ ràng nhất lệnh truyền này đó chính là hàng Giáo Sĩ và những người đang âm thầm dâng hiến cuộc đời mình trong Đức Ki-tô. Thật vây, linh mục mang trong mình sứ mệnh của Đức Ki-tô đến mọi nơi trên mặt đất này, cách đặc biệt đến những nơi mà Lời Chúa chưa được đến với họ. Trong niềm tin vào Đức Ki-tô, dân Chúa được quy tụ trước tiên là nhờ lời Thiên Chúa hằng sống, lời này phải được đặc biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các linh mục. [5] Chính đời sống và lời giảng của các linh mục là bảo chứng lệnh truyền của Đức Ki-tô đang được thực hiện.
b/ Vai trò Thánh Hóa
 Chúa Con nhiệm sinh từ Chúa Cha, Ngài đã ban chính Con yêu dấu của Ngài cho nhân loại, để nhân loại được ăn năn sám hối trở về với tình yêu bao la của Thiên Chúa. Thực vậy, Chúa Giê-su, ngoài việc kêu gọi mọi người ăn năn sám hối, Ngài luôn để ý và kêu gọi những người bước theo hành trình rao giảng, “Người bảo các ông: các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá,”[6] những con người này sẽ tiếp nối sứ mạng của Chúa Giê-su sau này. Khi xưa, các tông đồ được Chúa Giê-su kêu gọi thì nay các tông đồ cùng kêu gọi những người khác bước theo các tông đồ “Thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ đặt họ làm công việc phân phát lương thực.”[7] Chúng ta có thể khẳng định rằng, lời kêu gọi này sẽ được thực hiện đến muôn ngàn đời. Quả thật, Thiên Chúa mới là tác nhân chính trong viêc kêu gọi này và chính Ngài sẽ biển đổi những con người này nên giống Chúa Ki-tô. Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Đấng thánh hóa duy nhất đã muốn nhận một số người làm cộng sự viên và trợ tá, những người khiêm tốn phục vụ công việc thánh hóa. Các linh mục được Thiên Chúa hiến thánh qua tay Giám mục, để nhờ được tham dự cách đặc biệt vào chức tư tế của Chúa Ki-tô, các Ngài cử hành việc phụng tự thánh với tư cách là thừa tác viên của Đấng không ngừng thực thi trong phụng vụ tác vụ tư tế của Người, nhờ Chúa Thánh, để mưu ích cho chúng ta.[8] Chính vì thế, linh mục được thông dự cách tròn dầy vào thân hình mầu nhiệm Chúa Ki-tô qua việc cử hành các bí tích của Chúa Ki-tô, là đầu và là trưởng tử của Hội Thánh.
c/ Vai trò quản trị
 Qua thánh chức! linh mục là những người quản lý và phân phát kho tàng ơn Thánh Chúa cho hết thảy mọi tín hữu. Thực vậy, trong Hy tế Thánh lễ, các linh mục hãy dạy cho các tín hữu biết dâng lên Chúa Cha lễ vật chí thánh và hợp dâng vào đó lễ vật đời mình, trong tinh thần của vị Mục Tử nhân lành, các ngài khuyên nhủ họ thành tâm thống hối xưng thú lỗi lầm với Giáo Hội qua bí tích Hòa Giải để ngày càng quay về gần Chúa hơn,[9]  bằng cách luôn nhớ lời Người bảo: “Hãy thống hối vì Nước Trời đã đến gần.” [10] Chính vì vậy, linh mục phải ra sức rao giảng, để ơn Thánh Chúa được triển nở và đến với từng người trong cộng đoàn.
2/ Áp Dụng Ba Vai Trò của  Sứ Vụ Linh Mục Trong Việc Hội Nhập Văn Hóa.
 Trong Lời rao giảng của Chúa Gie-su, Ngài luôn lấy những hình ảnh thực tế để áp dụng vào Lời rao giảng, như: Chúa Giê-su chữa người bị bệnh phong và lấy hình ảnh con bò để giải thích. “Ai trong các ông có đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là ngày sa -bát” [11] hoặc “Người đem một em nhỏ đặt giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy, và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”[12]......
 Trong bối cảnh thế giới ngày nay, việc giảng thuyết của linh mục thường gặp rất nhiều khó khăn, vì thế để có thể lay động tâm hồn người nghe, lời giảng không chỉ trình bày Lời Chúa cách tổng quát và trìu tượng, nhưng phải áp dụng chân lý ngàn đời của Tin Mừng vào các hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống.[13] Quả vậy, con người trong xã hội ngày nay đang được hưởng một văn minh hiện đại, từ đời sống đến khoa học trí tuệ. Chính vì thế, Đức Chân phước Giáo Hoàng Phaolô VI đã nhấn mạnh giá trị của đời sống chứng nhân trong việc loan báo Tin Mừng: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân,”[14] đây là bổn phận và trách nhiệm của linh mục được sai đến với cộng đoàn tín hữu. Thật vậy, các ngài không thể là thừa tác vụ của Đức Ki-tô nếu không trở nên chứng nhân và nên người ban phát một đời sống khác với đời sống trần thế này, tuy nhiên các ngài không thể phục vụ nhân loại nếu lại trở nên xa lạ với cuộc đời và những hoàn cảnh sống của nhân loại.[15]
 Thực vậy, linh mục được sai đến không phải ngồi một chỗ trong một thế giới riêng tư, để không cân biết cộng đoàn mình sống chết thế nào, để rồi đến giờ lễ, lên giảng một bài cho qua chuyện, không cần biết những điều mình nói có phù hợp với cộng đoàn này hay không. Chính Thánh Augstinnô nói: Cho anh chị em, tôi là Giám mục, với anh chị em, tôi là một Ki-tô hữu. Chính vì thế, linh mục không phải là một con người cô lập, nhưng ngài là thành viên của một tập thể hữu cơ, đó là Giáo hội phổ quát, giáo phận, giáo xứ ....[16]. Có lẽ điều tối kị nhất đối với một linh mục đó là sự so sánh giữa xứ trước kia và xứ hiện nay, bởi vì mỗi giáo xứ có một văn hóa khác nhau, nên linh mục không thể áp dụng cách sống và cách mục vụ của xứ trước kia với xứ hiện tại được. Chính vì thế, linh mục được mời gọi ra đi để tìm hiểu và hội nhập với văn hóa trong xứ sở mới của mình. Từ đó, linh mục sẽ có đời sống và phương pháp mục vụ và giảng dậy cho phù hợp với cộng đoàn được trao phó. Nếu một linh mục không tìm hiểu văn hóa nơi đó thì những lời giảng dậy trở nên nhàm chán và thất bại trong đường hướng mục vụ tại chính nơi mình được sai đến. Vì thế, việc đầu tiên của linh mục khi được sai đến là tìm hiểu văn hóa và cuộc sống ở nơi đó như thế nào. Đây là một công việc không ai có thể làm thay cho linh mục mà chính linh mục phải đi ra và tìm hiểu. Từ đó, linh mục mới cảm nhận được bằng chính con tim và khối ốc của vị mục tử nhân lành đối với đoàn chiên. Qua đó, linh mục sẽ thấy được những con chiên nào cần được chăm sóc và cần bằng bó cách chu đáo.[17] Quả vậy, chính đời sống và gương sáng của linh mục là hình ảnh truyền giáo cách mãnh liệt nhất. Linh mục được mời gọi đi ra, hòa cùng nhịp đập với con tim của đoàn chiên. Từ đó, linh mục mang tất cả tâm tư, ước nguyện vào Lời Chúa, để nói với cộng đoàn, chắc chắn cộng đoàn sẽ cảm nhận được Lời Chúa và được chính Chúa Giê-su đánh động và thôi thúc họ bỏ con đường tội lỗi mà trở về. Thật vậy, giữa lòng dân Chúa, các tư tế của Giao Ước mới, do ơn gọi và chức thánh, một cách nào đó cũng đã được dành riêng, không phải để tách biệt khỏi đoàn dân hoặc khỏi bất cứ một ai, nhưng để được thánh hiến hoàn toàn cho công việc Chúa trao phó.[18]
 Một mặt, linh mục vừa phải sống và hội nhập với văn hóa trong giáo xứ cách nhanh nhất, mặt khác linh mục cũng phải chu toàn bổn phận thánh hóa, để cộng đoàn tín hữu được kết hợp trọn vẹn với thân mình Đức Ki-tô nhờ việc lãnh nhận Thánh Thể. Bởi vì, bí tích Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể cộng cuộc loan báo Tin Mừng.[19] Chính vì thế, linh mục dù có bận rộn công việc đến mấy cũng phải liệu sao để hằng ngày cộng đoàn tín hữu được đón nhận thần lương nuôi sống linh hồn. Linh mục cũng phải tìm hiểu và liệu thời gian cho phù hợp để cộng đoàn trong giáo xứ được tham dự bí tích Thánh Thể cách đông đủ nhất. Thật vậy, bí tích Thánh Thể còn được kéo dài suốt ngày trong các giờ Kinh Nhật Tụng, khi các ngài nhân danh Giáo hội khẩn cầu cùng Thiên Chúa cho đoàn dân đã được trao phó cho các ngài, đồng thời cũng cầu cho toàn thể thế giới.[20]
 Bí tích Thể là trung tâm đời sống Ki-tô hữu, nên các linh mục phải tạo bầu khí trang nghiêm trong việc cử hành, để cộng đoàn được kết hợp với Chúa Giê-su Thánh Thể cách trọn vẹn. Chính vì thế, linh mục không nên biện lý do là hội nhập văn hóa mà biến việc cử hành Thánh Thể như một buổi hòa nhạc hay một buổi múa phụ họa hay những việc đạo đức khác mà không chú trọng đến việc cử hành bí tích Thánh Thể. Có những linh mục quá chú tâm đến dáng vẻ bên ngoài mà quyên đi nét đep bên trong tâm hồn. Thật vậy, những nghi lễ dù đẹp mắt, những hội đoàn dù phát triển rầm rộ, cũng sẽ thành vô ích, nếu không hướng đến mục tiêu giáo dục mọi người trở nên những Ki-tô hữu trường thành.[21] Trưởng thành ở đây là trưởng thành về đời sống đức tin, đời sống luân lý, để qua đó người ngoài nhìn vào sẽ nhận biết cộng đoàn tín hữu này là môn đệ của Đức Ki-tô.[22]  Như vây, để cho cộng đoàn tín hữu được tràn đầy ơn Thánh và có đời sống nội tâm sâu sắc, trước hết linh mục cần có đời sống thánh thiện và đời sống nội tâm sâu sắc trước nhất. Nhờ đó, ơn thánh Chúa được tuôn tràn trên linh mục và cộng đoàn tín hữu. Người viết xin được mượn Thánh vịnh 133 để nói lên sự tuân tràn ơn thánh từ đời sống thánh thiện của linh mục.
Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
anh em được sống vui vầy bên nhau,
Như dầu quý đổ trên đầu
xuống râu xuống cổ áo chầu A-ha-ron,
như sương từ đỉnh Khec-môn
tỏa trên đồi núi Xi-on lan tràn,
nơi đây ân huệ Chúa ban,
chính là sự sống chứa chan muôn đời.
 Không những thế, linh mục là người quản lý và phân phát kho tàng ơn thánh Chúa cho hết thảy mọi tín hữu, cách đặc biệt đối với cộng đoàn giáo xứ đã được Chúa và Giáo hội trao phó. Vì thế, ngoài bổn phận phải cắt nghĩa cho giáo dân hiểu được tầm quan trọng của nguồn ơn thánh, trước hết linh mục phải trở nên những người quản lý cách khôn ngoan và trung tín. Quản lý cách khôn ngoan và cách trung tín ở đây không có nghĩa là khôn ngoan và trung tín theo kiểu của thế gian, chỉ biết làm lợi cho mình mà quyên đi những người xung quanh. Có lẽ câu truyện về dụ ngôn người quản lý bất lương trong Tin Mừng,[23] phần nào cho ta hiểu về người quản lý cách khôn ngoan và trung tín theo kiểu của thế gian và điều Thiên Chúa muốn nơi người quản lý kho tàng ơn thánh.
 Quả vậy, khôn ngoan và trung tín là hai đức tính rất cần thiết cho người quản lý. Nếu người quản lý chỉ trung tín mà thiếu khôn ngoan, thì đó chỉ là người bảo vệ kho tàng của chủ mà không sinh ích gì cho chủ. Còn nếu như người quản lý chỉ khôn ngoan mà không trung tín, thì trước sau cũng trở thành người phản chủ hoặc là người làm thiệt hại của chủ. Như vậy, Chúa Giê-su mong muốn nơi người linh mục hội tụ cả hai yếu tố khôn ngoan và trung tín. Chính nhờ hai yếu tố này, linh mục là cánh tay nối dài của Thiên Chúa, hầu mang lại nguồn ơn thánh cho cộng đoàn tín hữu. Chính vì thế, linh mục phải khôn ngoan mang Lời Chúa vào trong văn hóa của cộng đoàn để mà giảng dậy, nhờ đó Lời Chúa được thấm nhuần và đi sâu vào cuộc sống hiện tại của tín hữu, hầu có thể phân phát ơn thánh Chúa cho hết thảy mọi người. Nhưng cũng không vì lý do này mà linh mục làm mất giá trị của Lời Chúa và phân phát kho tàng ơn thánh cách không đúng và làm phương hại đến ơn thánh “của Thánh, đừng quang cho chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi  còn quay lại cắn xé anh em.”[24]
 Chính vì vậy, để thực hiện tốt vai trò quản lý thì linh mục phải ra sức giảng dậy giáo lý và sống với văn hóa của cộng đoàn, hầu có thể hiểu và phân phát ơn thánh Chúa cách tốt nhất. Sở dĩ linh mục phải hội nhập với văn hóa của cộng đoàn trước tiến, để qua đó linh mục có thể hiểu và truyền dậy và phân phát ơn thánh cách tốt nhất. Qua đó, linh mục cũng có thể dựa vào Lời Chúa mà “chuyển hướng” cách khôn khéo những “văn hóa” không cần thiết hay rườm rà trong phụng vụ hoặc đời sống, hầu mang lại cách “trọn vẹn” nguồn ơn thánh cho cộng đoàn tín hữu đã được trao phó.
3/ Tạm kết
 Qua định nghĩa về “Hội Nhập Văn Hóa” trong tông huấn Ecclesa in Africa (1995), và  người viết triển khai trong cái nhìn về “sứ vụ Linh mục trong việc hội nhập văn hóa giáo xứ,” phần nào đó cho ta thấy vấn đề hội nhập văn hóa là hết sức cần thiết đối với linh mục nói riêng và tất cả mọi người nói chung. Bởi vì, con người được mời gọi sống hiệp thông và kết hợp mật thiết với nhau trong một cộng đoàn làng xã nào đó. Như bài hát trong Album bài ca giáo lý-sinh hoạt có viết: Tôi chỉ thực sự là người nếu tôi sống với anh em tôi! không phải ai xa lạ mà là người đang đứng bên tôi! Thế giới này không ai là một hòn đảo! vườn hoa này không có loài hoa lạc loài. Qua đó, cho ta thấy giá trị của hội nhập văn hóa không những trong con người mà cả thế giới thụ tạo. Thực vậy, đã là con người thì không ai là một hòn đảo, nên con người được mời gọi sống với các mối tương quan, để sống được với các mối tương quan thì trước tiên là phải hiểu về cuộc sống và văn hóa ở đó như thế nào. Khi đã hiểu được thì những lời nói và cách cư xử của mình dễ được người khác chấp nhập và tán thành. Đối với con người, có thể nói khắp nơi trên thế giới này đều là nhà và tất cả mọi người xung quanh là anh em của ta.
 Quả thực, sứ vụ chính yếu của linh mục là mang kho tàng ơn Thánh đến với muôn dân, và giúp mỗi người được tiến đến gần tình yêu Chúa hơn. Chính vì thế, linh mục phải biết hội nhập văn hóa, để cho Lời Chúa được đi sâu vào trong trái tim của từng người trong cộng đoàn chứ không phải là cải vỏ bên ngoài. Chính tông đồ Phaolô đã nói “Giả như tôi được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh là phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm , mọi lẽ cao siêu hay có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng có ích gì cho tôi.”[25]  Như vậy “Đức Mến” ở đây ta có thể hiểu về “sự hội nhập văn hóa của linh mục trong cộng đoàn giáo xứ.” Quả vậy, khi linh mục tìm hiểu văn hóa ở giáo xứ đó thì những củ chỉ của linh mục mang đậm nét yêu thương, một cử chỉ xuất phát từ con tim chứ không phải từ ý chí đến đôi bàn tay, tất cả những thử đó khi hành động mà không có “Con Tim” thì cũng giống như thanh là kêu “pheng pheng” mà thôi.





[1] ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Viên, Hội Nhập Văn Hóa và Đối Thoại Liên Tôn, 2016, 58.
[2] ĐGM. Nguyễn Văn Viên, Hội Nhập Văn Hóa và Đối Thoại Liên Tôn, năm 2016, Tr 22.
[3] Ibid, 22.
[4] Mc 16,15
[5] Công Đồng Vaticano II, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 4,588.
[6] Mc 1,17
[7] Cv 6,3
[8] ID, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống các linh mục, Số 5, 591.
[9] ID, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 5, 593
[10] Mt 4,17
[11] Lc 14,5
[12] Mc 9,36-37
[13] ID, sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, số  4, 590.
[14] Thông điệp Evangelii nuntiandi, số 41.
[15] ID, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 3, 586
[16] Lm. Giu-se Lê Công Đức, linh đạo linh mục giáo phận, Nxb Phương đông, 2013, 49.
[17] Ed 34,16
[18] ID, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 3, 586.
[19] ID, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 5, 593
[20] ID, Sắc lệnh vè tác vụ và đời sống linh mục, Số 5, 594.
[21] ID, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 6, 596.
[22] Ga 13,35
[23] Lc 16,1-13.
[24] Mt 7,6.
[25] 1 Cr 13,1-3