I/ DẪN NHẬP
Con
người là chủ đề mà ai cũng quan tâm, đặt ra những câu hỏi mà chính người đặt ra
cũng không trả lời được. Mỗi nhà triết học có một quan niệm riêng về con người.
Chúng ta sẽ tìm hiểu con người dưới nhãn quan của hai nhà triết học lớn của
thời trung cổ nói thế nào về con người. Augustinô (354-430) và Tôma Đacanh
(1225-1274) là hai vị thánh lỗi lạc của Giáo Hội Công Giáo, đồng thời là hai
triết gia lớn của triết học nhân loại nói chung và của triết học thời kỳ trung
cổ nói riêng. Những tư tưởng triết lý mới mẻ và độc đáo của hai thánh nhân đã
để lại tiếng vang lớn cho nhân loại. Với hệ thống triết học của mình, thánh
Augustinô được xem là người rửa tội cho tư tưởng triết học của Platon. Còn
thánh Tôma Đacanh thì được xem là người Kitô hóa triết học của Aristotes. Cả
hai người đều được Giáo Hội tôn kính đặc biệt và nâng lên hàng hiển Thánh. Do sự
ảnh hưởng của tư tưởng Platon đối với T. Agustinô, và ảnh hưởng tư tưởng
Aristotes đối với T. Tôma, vì thế mà trong quan niêm về con người, hai người đã
có những tư tưởng giống và khác nhau. Tuy nhiên điều này không ảnh hưởng đến
đức tin duy nhất của các ngài, mà nó góp phần làm phong phú thêm cho Giáo Hội
trong việc nhìn nhận về bản thể của con người.
II/ NHỮNG
ĐIỂM GIỐNG NHAU
Cả hai thánh đều chống lại lập trường Nhị Nguyên của phái Manicheisme. Do đó không bao giờ quan
niệm rằng: vật chất là xấu và thân xác không bao giờ là ngục tù giam hãm linh
hồn. Việc linh hồn kết hợp với thân xác không phải là một tình trạng tội lỗi
của linh hồn.
Cả hai đều đồng nhất cấu tạo của con người gồm hai phần: linh hồn và
thân xác. Trong đó linh hồn là hình thức của thân xác. Linh hồn con người là
thiêng liêng, có lý trí, nguồn sống của con người và linh hồn có tính bất diệt,
còn thân xác thì khả tử. Ta thấy sự giống nhau trong quan niệm của hai thánh là:
con người có mục đích và khát vọng hướng về Thiên Chúa là hạnh phúc, là chân lý
và sự thiện tuyệt đối, vĩnh cửu. Con người mở rộng ra với Thiên Chúa vì con
người luôn khát khao đạt tới chân lý thực tại và sự thiện toàn mỹ. Điều đó
không nhằm thỏa mãn óc lý luận muốn biết, nhưng là vì trong cơ cấu của con
người đã luôn có ước muốn được hạnh phúc, đạt đến sự thiện tuyệt đối.
Cả hai thánh đều cho rằng: linh hồn con người có thể hoạt động với ba
khả năng là: cảm năng, ý chí và lý trí. Linh hồn hoạt động qua: các cơ quan cảm
năng phục tùng ý chí, ý chí phục tùng lý trí và lý trí phục tùng Thiên Chúa. Linh
hồn là thực thể tinh thần, nghĩa là nó vừa vô chất vừa thực tại. Những hoạt
động của linh hồn có ảnh hưởng trong đời
sống thực tại và trong đời sống siêu nhiên.
Cả hai thánh đều khẳng định sự liên kết chặt chẽ và bổ túc cho nhau giữa
đức tin và lý trí của con người, giữa chúng không có sự đối kháng hay mâu thuẫn
gì. Thánh Augusitô cho rằng:
"Hãy tin để hiểu và hãy hiểu để tin". Còn thánh Tôma Đacanh thì: "Giữa đức tin và lý trí, giữa huyền nhiệm và
khoa học là hai lãnh vực khác nhau, đành rằng có những điểm khác biệt nhau
nhưng không phải là nghịch lý. Cả hai cùng lớn lên và cùng tồn tại trong nhau
nơi đời sống của con người. Nó bổ túc và phong phú hóa cho nhau".
Trong việc nhận thức của con người hai thánh đều khẳng định: có một thế
giới khả niệm mà ta có thể trực giác được nhờ tri thức. Trong việc nhận thức
khả giác, sự vật khả giác không thể tạo ấn tượng trực tiếp trên trí khôn, nghĩa
là sự vật không thể tác dụng trực tiếp lên tinh thần, mà phải thông qua trung
gian, đó là những hình ảnh hay các ý niệm.
Trong vấn đề tự do cả hai thánh đều đồng nhất rằng đó là quà tặng của
Thiên Chúa ban cho con người, là khả năng chọn lựa yêu mến, quy hướng phục tùng
và vươn lên tới Thiên Chúa hoặc là con người chống lại Thiên Chúa, chống lại
công bằng, sự thiện hay sự tốt lành.
Trong vấn đề sự ác hay điều xấu, hai thánh cũng cho rằng: đó không phải
là điều tất yếu của công trình tạo dựng Thiên Chúa thực hiện. Thiên Chúa không
phải là nguyên nhân của cái ác hay điều xấu. Nguyên nhân của nó là do việc con
người đã chọn lựa sai trái đi kèm với sự tự do của mình.
III/ NHỮNG
ĐIỂM KHÁC NHAU
A/ Theo
quan niệm của Thánh Augustino
Trước hết T. Augustino cho rằng con người
gồm linh hồn và thân xác. Thánh nhân đề cao linh hồn hơn thân xác, coi trọng
những "sinh hoạt" của linh hồn hơn những hoạt động của thân xác. T.
Augustino cũng như đối với Plotin cho rằng tương quan giữa linh hồn và thân xác
giống như mối tường quan giữa người thợ và công cụ của họ hay giữa một người
nghệ sĩ và nghệ khí của họ. Chính vì vậy, Augustino cho rằng tri thức cảm giác
trong con người là một trường hợp đặc biệt trong những trường hợp mà linh hồn
sử dụng thân xác. Qua đó, thánh nhân thiết định một công thức: Linh hồn có thể
tác động trên thân xác nhưng thân xác không thể tác động trên linh hồn[1].
Đó là hệ luận liên quan giữa người thợ và công cụ của họ. Cái gì bên dưới theo
bản tính không có khả năng tác động ngược lên cái gì bên trên. Augustino đã
nhấn mạnh rằng cả những cảm giác của thể xác cũng là một tác động của linh hồn,
một tác động đã được khởi động lên qua những cơ quan cảm giác của thể xác, đó
là một sự biến đổi trong cơ quan cảm giác tự nó không phải là một cảm giác, nếu
một cách nào đó nó không được báo cáo cho trí khôn.
Từ đó, cho ta thấy Augustino nhằm giải thích
sự liên quan tương hỗ giữa ý thức của trí khôn hay linh hồn là sự biến đổi
trong cơ thể nhưng không để cho cơ thể là nguyên nhân khởi động lên ý thức của
trí khôn. T. Augustino quan niệm con người gồm linh hồn và thân xác nhưng hai
thành phần này không gắn kết với nhau mà nó có một sự phân cách riêng biệt.
Thánh nhân cho rằng mỗi một cơ thể có một linh hồn riêng và không bắt nguồn từ thượng
đế. Linh hồn tạo ra như một huyền bí, linh hồn bất tử. Augustino đã xem linh
hồn như một thực thể riêng biệt và độc lập. Giữa linh hồn và thân xác không có
trách nhiệm và ảnh hưởng biện chứng, tương hổ lẫn nhau. Việc kết hợp giữa linh
hồn và thân xác trong hiện tại của con người không phải là lý tưởng. Tình trạng
hiện nay của con người là do hậu quả của tội nguyên tổ. Linh hồn không phải là
vật chất, nó khác hoàn toàn với thể xác và sau khi thân xác chết đi thì linh
hồn trở về với thần thánh và đó mới là cuộc sống đích thực của họ[2].
Với
quan niệm của Augustino thì linh hồn sử dụng thân xác như một công cụ. Linh hồn
là “một bản thể độc lập và chỉ khi tham dự với lý tính thì có khả năng chi phối
thân xác”. Hồn đóng vai trò quyết định nhưng trong con người luôn tồn tại trạng
thái giằng co đối lập giữa: Tôt - Xấu, Thiện - Ác, Tích cực – Tiêu cực. Sở dĩ
có như vậy trong con người vì con người có tự do. Thánh nhân đã nhận thấy trong
cuộc sống của mình những khích lệ, những tình cảm và những khuynh hướng đi
ngược chiều với ý muốn của mình. Chính Augustino đã thú nhận rằng: “Chính mình
đã tự lừa dối mình bằng nhiều cách như: khi thì lấy sự tò mò làm sự hiểu biết,
khi thì cầu khẩn Thiên Chúa cho mình một biểu hiện để có thể làm những gì mình
có ngay lúc này, khi thì tỏ ra hài lòng về điều thiện mình làm nhưng đồng thời
lại lấy đó làm điều hãnh diện với người khác”. Augustino đôi khi phải lên tiếng
than phiền rằng: Tôi không thể hiểu biết tôi và cũng không sao chìm sâu vào nội
tâm của tôi được. Tuy nhiên trong con người vẫn còn những điều mà chính tinh
thần cũng không hiểu nổi, nhưng chỉ có Ngài, mới biết được con người cách tường
tận vì chính Ngài đã tạo nên con người.
Trong bản
tính của con người còn có ý muốn là một quan năng hàm hồ khó hiểu vì mỗi khi
Augustino cảm nghiệm thấy ý muốn là trong tâm sự hiện hữu của chính cuộc đời,
vì mỗi lần muốn hay không muốn điều gì thì Augustino luôn luôn cảm nghiệm rằng
không ai khác mà chính là mình muôn hay không muốn điều đó và như thế “mỗi khi
muốn hay không muốn điều gì, tôi chắc chắn không phải một người khác muốn hay
không muốn điều đó” [3].
Trái lại ý muốn luôn luôn vật vờ, lắc lư giữa con đường thiện và con đường ác,
khi muốn thì không muốn. Cả những khi nhìn thấy ánh sáng huy hoàng của cái thiện tuyệt đối với ham
muốn và ước ao nhưng không sao quyết định nổi. Đó là nỗi lo âu kinh khủng của
Augustino cảm nghiệm trong sâu thẳm của tâm hồn.
Từ đó, Augustino nói rằng tự do theo ý muốn
trải qua hai trạng thái ngược chiều nhau: Một là tự do, vật vờ rõ hết sức muốn
mà không sao quyết định nổi, muốn và thức hiện được ý muốn ấy không đi đôi với
nhau. Augustino xem sự nhu nhược ấy như dính liền với căn tính của con người.
Hai là một khi con người quyết định rồi thì mọi sự trở thành vững chắc, không
thể lay chuyển, giờ đây ý muốn trở thành tất định, chính tác động muốn có nghĩa
là chấm hết mọi do dự, mọi bất định và mọi hoài nghi cũng như chấn hết mọi áp
lực từ ngoại tại.
Theo Augustino thì mọi thứ trong vũ trụ đều
có cái thiện, ngay cả khi cái ác hiện hữu trước mắt chúng ta cũng thực sự là
điều thiện, khi cái ác đó phù hợp với toàn bộ mẫu hình của vũ trụ. Những khoảng
tối, bóng mờ cũng rất cần thiết để tôn thêm vẻ đẹp cho bức tranh. Nếu như chỉ
nhìn riêng chúng, tách rời chúng hoàn toàn bức tranh thì chúng hiện ra là cái xấu,
nhưng khi xét tổng thể thì chúng có thể làm tôn thêm vẻ đẹp của bức tranh. Qua
đó, Augustino quan niệm rằng cái ác thực sự là sự vắng mặt của cái thiện, cũng
như bóng tối là sự thiếu vắng ánh sáng. Cái ác mà chúng ta tìm thấy trong vũ
trụ là do Chúa sắp đặt ở đây để tạo nên cái thiện trọn vẹn của vũ trụ. Theo
Ngài thì cái đích của nhận loại là sự hợp nhất trọn vẹn với Chúa trời và thoát
khỏi thế giới trần tục. Con người nên tránh những đam mê khoái lạc của thế giới
trần tục, nên một lòng hướng về Chúa, Ngài là một Đấng tối cao toàn mỹ. Sự hòa
hợp với Chúa có được thông qua tình thương yêu của Chúa, điều này trái với tình
thương của vạn vật. [4]
Trong vấn đề nhận thức T. Augustino quan
niệm con người có sẵn những nguyên lý của lý trí và nguyên tắc của luân lý, như
đã có sẵn quy luật mọi tư tưởng và hành động. Nó có trước và tự đối lập với
những hoạt động của cảm giác nơi con người. Augustino đã phân biệt một bên là:
sự nhìn xem bằng thể xác và một bên là nhìn xem bằng tinh thần. [5]
+ Sự nhìn xem bằng thể xác là một sự
biến đổi trong đôi mắt khi nhìn xem sự vật và đó là kết quả của sự gặp gỡ giữa
đôi mắt và sự vật được nhìn xem.
+ Sự nhìn xem bằng tinh thần là một quá trình của trí óc đi theo sự nhìn
xem bằng thể xác, nếu không có sự nhìn xem này thì quá trình cảm giác không thể
được nhìn nhận như một kinh nghiệm cảm giác, vì mọi kinh nghiệm tri thức đều là
một tác động của trí khôn cả. Nhưng “ Sự nhìn xem bằng tinh thần ” không thể xuất
phát từ sự nhìn xem bằng thể xác từ một nguyên nhân được vì thể xác không thể
chi phối linh hồn.
Ø Từ đó cho ta
thấy được sự nhìn xem bằng tinh thần là một quá trình biệt lập trong việc mơ
mộng hay tưởng tượng, mặc dù không có mặt của sự nhìn xem bằng thể xác. Trong
cả việc nhìn xem, cả việc mơ mộng và tưởng
tượng, quá trình trí óc đều giống nhau, vì tất cả những gì xuất hiện trước mắt
trí khôn thì đều có cùng một bản chất như nhau. Trong mỗi trường hợp cái gì trí
khôn nhìn thấy không phải một đối tượng ngoại tại với nó mà là một hình ảnh ở
trong nó. Sự khác biệt giữa cảm giác và tưởng tượng là ở chỗ trong cảm giác là
một quá trình của sự nhìn xem bằng thể xác luôn đi kèm với một quá trình trí
óc, ngược lại trong khi tưởng tượng thì không có như thế. Augustino chú ý đến
quá trình tri giác thì cảm giác cũng quan trong và cống hiến cho ta một chỉ dẫn
như sau: chính sự chú ý hướng dẫn sự nhìn xem của trí khôn và qua đó chính sự
chú ý lại ngăn trở hoạt động tự do của tưởng tượng trong trí óc. Chính vì vậy,
cảm giác và tưởng tượng có thể phân biệt được trong kinh nghiệm bằng cách kéo
chú ý đến sự hiện diện của chú ý, vì sự hiện diện của nó bất đồng trong sáng
tạo của trí tưởng tượng và bảo đảm bằng những gì hàm chứa trong trí óc đều có
một liên quan nào đó với những giác quan thể xác và thế giới của chúng.
T. Augustino đã rửa tội cho triết học Platon
cho nên Augustino đã sử dụng và thích ứng rất rộng rãi nhiều yếu tố nền tảng
trong truyền thống của Platon. Những ví dụ tiêu biểu cho tri thức thuần túy
biệt lập với những kinh nghiệm cảm giác là những chân lý của toán học.
Augustino đã khám phá ra được tính cách phổ biến, tất yếu và bất biến là những
biểu hiện lý tưởng nhất của chân lý. Augustino không chỉ dừng lại ở lĩnh vực
toán học mà thánh nhân còn mở rộng chuẩn đích của chân lý ra rất nhiều, đến cả
những phán quyết luân lý và những phán quyết giá trị, loại nhận thức này cũng
giống với nhận thức bằng cảm giác nhưng chỉ khác ở chỗ nó có những đối tượng tự
chúng siêu việt hơn những đối tượng của vật lý và kinh nghiệm của cảm giác,
chúng có tính cách bất diệt nên nó biết được cách minh bạch và chắc chắn.
Augustino đã quan niệm tri thức mở ra cho trí khôn con người, tri thức không
cần đến trung gian của những cảm giác. Tri thức ấy được quan niệm bằng sự nhìn
xem bằng tinh thần. Đối tượng của tri thức là những đối tượng công cộng không
lệ thuộc trí khôn lĩnh hội chúng cũng không khác gì những đối tượng của sự nhìn
xem theo cảm giác. Trong khi tri thức chúng của trí khôn chỉ khám phá ra những
đối tượng chứ không sáng tạo ra chúng, cũng như con mắt không sáng tạo những sự
vật nó nhìn thấy. Đồng thời cũng theo tinh thần triết lý Platon. Augustino
thường quan niệm những chân lý mà tri thức này lĩnh hội được đều cấu thành một
lĩnh vực thực tại cũng được gọi là “lý giới”. [6]
Lý giới này lại được đồng hóa với “tinh thần của thần minh”, trong đó gồm có
những lý tưởng cho mọi sự vật. Điều này đã được Platon so sánh tri thức với sự
nhìn xem trong hình ảnh mặt trời của lý giới theo đối thoại ẩn dụ hầm núi cũng
như cái thiện là mặt trời soi sáng cho những lý tưởng, ở lý giới thì mặt trời
trong thiên nhiên cũng soi sáng cho vạn vật như vậy. Ánh sáng của mặt trời ấy
trong khi chiếu rải trên các sự vật để chúng khả thị thì soi sáng cả chúng và
soi sáng luôn cơ quan nhìn xem của chúng nữa, đó là trí óc của con người. Để
trả lời cho những thắc mắc trong triết lý của mình Augustino thường dùng những
hình ảnh riêng của mình hoặc mượn ở Platon để giải thích: Chân lý thường tiềm
ẩn trong tôi mà tôi không hề hay biết. Khi chú ý, tôi đi sâu xuống đáy lòng
tôi, một đáy lòng trước kia xa cách tôi và luôn luôn không thể dò thăm, rồi tôi
làm nó xuất hiện lên ánh sáng. Từ đó, Augustino đã đúc kết lại trong một câu
danh tiếng “Hãy trở về trong ngươi vì chỉ trong con người nội tâm mới có chân
lý cư ngụ”. [7] Sở dĩ có
như vậy vì ở bên ngoài linh hồn, cũng có thể và phải có những người chỉ bảo,
những huấn luyện viên hay những biểu hiện kêu gọi con người trở về với mình để
tra hỏi chân lý, nhưng tính cách bộc phát riêng biệt của linh hồn là một cái gì
không thể vi phạm vì tùy nó có sử dụng những biểu hiện ấy để giải thích chúng,
nhưng luôn luôn nó rút tỉa được chính bản chất điều mà hình như nó đã lĩnh nhận
được từ nội tâm.
Augustino đã khai triển thuyết lý tưởng của Platon theo ánh sáng mới mẻ
của Kitô giáo. Nhưng nhờ sự tin tưởng mãnh liệt vào công cuộc tạo dựng do Kitô
giáo chủ xướng nên Augustino đã loại bỏ những huyền thoại về hồi niệm và luân
hồi trong học thuyết của Platon. Theo Augustino con người trước khi sinh ra,
Chúng ta sống ở một lý giới nào, cả ở tiền kiếp. Do dó chúng ta cũng không sống
với những kỉ niệm của một cuộc sống chiêm ngưỡng những lý tưởng thường ngày,
ngược lại chính Thiên Chúa là ánh sáng nội tâm soi sáng ta tham dự vào những
chân lý hường ngày của Ngài và chiêm ngưỡng những chân lý ấy.
T. Augustinô không đề cao vai trò của các giác
quan trong việc nhận thức và cho rằng: việc nhận thức bằng giác quan chưa phải
là một nhận thức đích thực. Vì đối tượng của nó luôn luôn thay đổi và loài vật
cũng có được loại nhận thức này. Augustino cho rằng con người có tri thức tự
nhiên về thế giới xung quanh. Họ biết bản chất cơ thể và có thể hành động dựa
trên nhận thức. Đối với những nhu cầu thông thường của cuộc sống thì nhận thức
này không đầy đủ. Nhưng cũng có một tri thức cao hơn không phải xuất phát từ
cảm nhận cũng như không cùng loại với tri thức tự nhiên. Đây là tri thức được
phát giác đến thông qua đức tin, chúng dường như đối nghịch với tất cả những gì
mà con người đã phát hiện trong cảm nhận.
Trong lãnh
vực đức tin và lý trí thì ta thấy thánh Augustinô đã đề cao vai trò của đức
tin: "trước hết hãy chấp nhận những lý thuyết do đức tin đề ra, sau đó mới
tìm hiểu để đào sâu". Thánh nhân quả quyết rằng: trên con đường tìm kiếm
của lý trí, nhờ ánh sáng của đức tin, lý trí sẽ có được những cột mốc chỉ đường
vững chắc, có thể giúp con người tìm thấy lời giải đáp cho những thắc mắc của
lý trí. Trong việc lý giải những điều bất hảo của con người và của vũ trụ,
thánh Augustinô đã nhấn mạnh đến nguyên nhân là do hậu quả của tội nguyên tổ. Augustino
tin rằng con người đầu tiên là Adam, đó là mô hình con người của tương lai. Ông
cũng cho rằng Adam đã phạm tội và đã ảnh hưởng tới toàn bộ loài người, ta được
thừa hưởng những yếu kém và tội lỗi của con người đầu tiên và được tạo hóa lựa
chon để cứu rỗi.
B/ Theo Quan niệm của T. Tôma Đacanh
T.
Tôma Đa canh cho rằng: Con người là một hữu thể duy nhất được cấu tạo bởi sự
kết hợp chặt chẽ không tách rời giữa linh hồn và thân xác. Đối với thánh nhân
thì linh hồn là phi vật chất có trí tuệ,
trí tuệ là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại của thân xác. Linh hồn có trí tuệ
hình thành cùng lúc với thân xác.[8]
T. Tôma Đa canh nhấn mạnh một cách
đặc biệt trên ý niệm rằng toàn thể con người mới là chủ động. Mỗi hữu thể con
người là một thể xác có linh hồn, trong đó nguyên tắc tâm lý là một nguyên tắc
thuộc loại đặc biệt và thánh nhân thiết định rằng chất liệu là của con người,
hay nói cách khác linh hồn con người là mô thức bản thể. Một số hoạt động của
linh hồn rõ ràng giống như những hoạt
động của sinh vật, nhưng những chức vụ suy lý và ước muốn vượt trên tímạnh của
tính chất phổ biến và trừu tượng của chúng. Linh hồn là một thành phần đích
thực của con người và với tính cách vừa vô thể chất vừa thực tại. Linh hồn con
người có tính “đơn nhất” và “thống nhất” nghĩa là nó không thể phân chia ra
từng thành phần được nên linh hồn không thể bị tiêu diệt. [9]
Do đó nó có tính cách bất tử. Linh hồn và thân xác không phải là hai vật mà là
một: hồn_xác. Linh hồn và thân xác có ảnh hưởng tương hỗ: không có hồn, xác sẽ
không có hình thức, và không có xác thì hồn sẽ không có các cơ quan cần thiết
để đạt đến tri thức. Tinh thần của con người là linh hồn, không thể hình thành
và hoạt động, dù là những hoạt động tri năng cho tới việc chiêm ngưỡng cao siêu
nếu mà không cần đến thân xác. Theo T.
Tôma Đa canh: con người là một hợp thể gồm bởi hồn và xác. Nhờ yếu tố tinh
thần mà con người hiện hữu như là một nhân vị duy nhất, mang phẩm giá cao quý
bởi vì được Thiên Chúa yêu thương tạo dựng. Linh hồn thiêng liêng bất tử, nhưng
kết hợp với thân xác thành một bản thể. Linh hồn hoạt động qua các quan năng,
đặc biệt qua lý trí và ý trí. [10]
Tuy nhiên, những ý tưởng của lý trí không phải do tự nhiên mà có, nhưng là nhờ khả năng
từ những hình ảnh mà giác quan cung cấp. Linh hồn không hiện hữu trước khi có
con người (Đây là điểm khác biệt với tư
tưởng của Platon). Linh hồn và thân xác gắn bó với nhau khăng khít đến nỗi T. Tôma
Đa canh chủ trương thân xác mang niềm khát vọng tự nhiên được sống lại, bởi
vì linh hồn sẽ không cảm thấy hạnh phúc trọn vẹn khi lìa xa thân xác. Việc kết
hợp làm một với thân xác của linh hồn không gây trở ngại cho phẩm giá cao quý
của linh hồn, cũng như tính bất diệt của linh hồn. Vì chỉ có một "mô thể" điều khiển và chịu trách nhiệm
về mọi sinh hoạt của tinh thần lẫn vật chất. Nó có những đối lập như: bất tử - khả
tử, tốt - xấu, thiện - ác, tích cực - tiêu cực. Theo T. Toma Đa canh thì Chúa trời là đấng sáng tạo ra vạn vật bao gồm
cả con người với một mục đích và cái thiện cao cả nhất của vạn vật là sự thực
hiện của mục đích. Khi một người nhận biết được mục đích mà Chúa nhào nặn ra
anh ta, thì anh ta khám phá ra cái thiện cao cả của Chúa Trời. Do đó cái thiện
cao cả nhất là sự nhận biết ra chính mình, giống như Chúa Trời đã định sẵn.
Theo Ngài cách tốt nhất để đạt được cái thiện toàn mỹ là rời bỏ của cải vật
chất của thế giới trần tục để đi tìm cuộc sống của Chúa. Với Ngài cái ác là sự
nghèo túng thiếu đi cái thiện. Tất cả vạn vật được Chúa sáng tạo ra với một mục
đích là hướng thiện. Khi chúng thất bại thì hệ quả tất yếu là cái ác sẽ xẩy ra.[11]
Ø Qua đó cho ta
thấy T. Tôma Đa canh đã đi theo con
đường của T. Augustino cho rằng cái
tốt và cái xấu của một hành động đặc thù, phụ thuộc vào mục tiêu hay mục đích
của người hành động. Một hành động có thể có những hậu qủa tốt nhưng cũng có
thể là không tốt, trừ phi người hành động đó có ý định hành động để có những
kết quả tốt và biết rằng điều đó sẽ mang lại kết quả tốt.
Tuy nhiên, T. Tôma Đa canh không đồng tình với T. Augustino rằng một hành động tỗi lỗi
có thể trở thành tốt nếu như người hành động có chủ tâm tốt. Chủ tâm tốt sẽ
không làm hành động xấu rở thành tốt mà chủ tâm đó chỉ là một điều sẽ làm cho
hành động tốt đó thực sự là tốt.
T. Tôma Đacanh quan niệm: Không có gì có trong trí khôn mà không
thông qua giác quan. Hơn nữa, dù những nguyên lý căn bản của lý trí có mầm mống
trong ta, những cũng phải nhờ đến kinh nghiệm để xuất hiện và phát triển. Qua
đó Thánh nhân đã kể ra bốn nội quan: Tổng quát, Kí ức, tưởng tượng và bản năng:
[12]
+ Tổng giác theo Thánh Nhân là giác quan chung, là nơi tập hợp các cảm
giác riêng của ngũ quan.
Vd: Khi cầm trên tay một trái chuối thì con mắt nhìn thấy màu sắc, bàn
tay sờ được hình thù, mũi giử được mùi nên ta nhận biết được trái chuối là sự
tổng hợp của những cảm giác riêng biệt.
+ Ký ức là hồi tưởng: Cảm giác được gây ra do sự kích thích bền ngoài để
đưa đến giác quan. Tuy nhiên, sau khi sự kích thích đã chấm dứt thì ta vẫn có
thể gợi lại cảm giác đó.
Vd: Tiếng động vang đến tai.
Ký ức có thể được phân loại dựa theo đối tượng
của ngoại giác, nhờ cái đã nhìn, đã nghe đã nếm, đã ngửi, đã chạm. Ký ức cảm
giác liên quan đến những sự kiện khả giác cụ thể, còn ký ức trí tuệ mang nội
dung trừu tượng phổ quát. Trên thực tế hai cấp độ nay liên hệ trực tiếp đến
nhau.
+ Tưởng tượng: Nói đến trí tưởng tượng của con người, là nói đến chức
năng của lý trí. Tượng tượng đối nghịch với ký ức. Ký ức gợi lại cảm giác đã
có, còn tưởng tượng tạo ra cảm giác chưa có bằng cách chắp nối các cảm giác đã
có trong quá khứ. Thánh nhân nói rằng có bốn thứ tưởng tượng: Mơ mộng, Nghệ
thuật, thực tiễn và lý thuyết.
+ Bản năng: Có nhĩa là khả năng lượng định tức thời điều gì có lợi hay
có hại, thuận tiện hay bất thuận tiện cho sự sống còn, bản năng không chỉ thuộc
lãnh vực nhận thức nhưng còn bao hàm những yếu tố của cảm xúc. Ngay từ xưa con
người đã nhìn nhận hai bản năng cơ bản chung cho thú vật cũng như loài người,
đó là bản năng sinh tồn và bản năng truyền sinh.
T. Tôma Đa canh đề cao vai trò và khả năng của các giác quan và cảm
giác. Theo thánh nhân: không có gì trong trí khôn mà không có ở nơi cảm giác.
Cảm giác là kết quả của đối tượng khả giác và chủ thể nhận thức, những ý tưởng
được tiếp nhận từ cảm giác. T. Tôma Đa
canh lập luận rằng tri thức xác thực là tri thức mang tính quan niệm và
những khái niệm có nguồn gốc từ những cảm giác. Nhưng trí óc có thể hình thành
những khái niệm phổ biến từ những cảm giác này. Nhưng vật thể bên ngoài hành
động dựa vào linh hồn, một thứ nguyên liệu thô này của tri thức được nhận vào
và được nhào nặn thành tri thức mang tính khái niệm bởi những khả năng cao hơn
của linh hồn. Nhưng cũng có tri thức trực giác vượt trội hơn tri thức có được
thông qua cảm giác, thông qua lý trí hoặc thông qua đức tin đơn thuần. Tri thức
này có nguồn gốc từ sự soi sáng của thần thánh và cũng có quyền lực từ thần thánh.
T. Tôma Đa canh còn nhận định ý tưởng được tiếp nhận từ cảm giác, thánh
nhận lập luận rằng: tri thức xác thực mang tính quan niệm và những khái niệm có
nguồn gốc từ những cảm giác. Nhưng trí óc có thể hình thành những khái niệm phổ
biến từ những cảm giác này. Những vật thể bên ngoài hành động dựa vào linh hồn,
thứ nguyên liệu thô này của tri thức được nhận vào và được nhào nặn thành tri
thức mang tính khái niệm bởi những khả năng cao hơn của linh hồn. Nhưng cũng có
những tri thức trực giác vượt trội hơn tri thức có được thông qua những cảm
giác, thông qua lý trí hoặc đức tin đơn thuần. Tri thức này có nguồn gốc từ sự
soi rạng thần thánh và cũng có quyền lực từ thần thánh. Chúng ta biết về Chúa, về
sự bất tử và những học thuyết khác của Chúa không phải nhờ vào việc lý giải mà
nhờ vào hình thức cao hơn về tri thức này. Sự nhận thức của con người nằm ở vị trí
trung hòa giữa thiêng liêng và vật chất. Các hữu thể thuần thiêng thì có những
ý tưởng gắn liền với bản tính của mình, nghĩa là bẩm sinh. Các động vật thì thủ
đắc nhận thức qua các giác quan, nhưng nhận thức cảm tính thì mang tính cụ thể.
Loài người thì thủ đắc nhận thức qua các giác quan nhưng đồng thời có khả năng
để chuyển hóa các nhận thức cụ thể sang nhận thức phổ quát, nhờ tiến trình “trừu
tượng hóa”, bằng cách gạt bỏ những chi tiết riêng và giữ lại những khái niệm
riêng. Cơ quan gạn lọc được gọi là “Trí tuệ”, biến đổi nhận thức giác năng sang
nhận thức tri năng. Trí tuệ không phải là chức năng của một cơ quan cụ thể nằm
trong bộ não, nhưng là một quan năng thuộc vê bản tính con người, vừa vật chất
vừa thiêng liêng. Nhận thức trí tuệ không lệ thuộc vào đối tượng bên ngoài. Cảm
giác chịu ảnh hưởng của đối vật: Nếu có tiếng động thì ta nghe, nếu tiếng động
chấm dứt thì ta hết nghe. Nên trí tuệ có thể nghĩ đến những đối tượng phổ quát
và trừu tượng, không chịu lệ thuộc vào những chiều kích không gian và thời
gian.[13]
Thánh Tôma Đacanh đề cao vai trò của lý trí: ngoài phạm vi tôn giáo thì
con người có thể hiểu biết mà không cần đến ơn phù trợ trực tiếp của Thiên
Chúa. Hơn nữa trí khôn có thể khám phá nhiều điều về Thiên Chúa: Ngài là
Chân-Thiện-Mỹ. T. Tôma Đa canh quan
niệm: Tin là hành vi của trí tuệ gắn bó với chân lý của Thiên Chúa, dưới sự
điều động của ý chí được ân sủng của Chúa lay động. Con người là một chủ thể
luân lý, hoạt động có trách nhiệm tự do, biết dùng suy luận để cân nhắc các lý
lẽ trước khi hành động, và ý trí để điều khiển các hành vi. Con người hướng về hạnh
phúc, tìm cách đạt đến sự thiện tuyệt đối, con người có ước vọng theo lý trí,
nhờ đó am hiểu được thế nào là cái thiện và có được khả năng suy tư theo những
yếu sách của lý trí và nhờ ánh sáng của lý trí, ước vọng tự nhiên đó trở thành
ý muốn tự do định đoạt nơi con người. Sự khác biệt giữa ước vọng của vạn vật và
nơi con người được thánh nhân xác định: cứu cánh bao giờ cũng tương ứng với
nguyên lý, vậy một khi biết được nguyên lý của vạn vật là gì thì ta cũng biết
được cứu cánh của chúng, cứu cánh của vạn vật phải là cái thiện vì chỉ có cái
thiện mới là cứu cánh và một cái thiện ở ngoài vũ trụ, cứu cánh này chỉ có ở
nơi Thiên Chúa. T. Tôma Đa canh quan
niệm cái thiện của con người phải phù hợp với lý trí và ngược lại cái ác là tất
cả những gì trái ngược, không phù hợp với lý trí. Nhân đức thiết yếu là một tư
thế luôn luôn hành động phù hợp với lý trí hay nói cách khác nhân đức luân lý
có được cái thiện là do quy luật của lý trí.[14]
Qua đó, cho ta thấy hành vi được nhân đức luân lý quy định thích hợp với lý trí
ngay thẳng và lý trí có nhiệm vụ chỉ định một mức trung dung nghĩa là tránh
được cái thái quá và cái bất cập.
Đối
với T. Tôma Đa canh: sự hoàn hảo của
vũ trụ đòi hỏi phải có sự bất hoàn hảo của các hữu thể. Đó là khả năng tạo ra
hư hoại của các hữu thể chứ không phải là tất yếu có hữu thể hư hoại. Theo T. Tôma Đa canh Đức Chúa tao ra vũ trụ bao gồm cả con người . Con
người bao gồm cả tinh thần và vật chất, trong con người chúng ta có thể tìm
thấy 2 yếu tố cơ bản linh hồn và thân xác. Con người bị thể xác lôi kéo vì vậy
mà con người phải tìm kiếm sự cứu rỗi linh hồn từ tội lỗi được kế thừa. Con
người không phải là một tiểu vũ trụ khép kín. Sau khi đã bàn về bản tính của
con người, Tôma Đa canh đã lồng nó
trong tương quan với Thiên Chúa là Đấng tạo thành và hạnh phúc của con người. Dù
biết rằng Kinh Thánh có nói tới con người được dựng lên theo hình ảnh Thiên
Chúa nhưng ngoài dữ kiện mặc khải, T.
Tôma Đa canh còn cố gắng phân tích bản tính con người nhằm chứng tỏ rằng cơ
cấu con người tự nó hướng về Thiên Chúa. Con người có khả năng nhận biết Thiên
Chúa bởi vì con người luôn khao khát đạt tới chân ly khách thể và sự thiện toàn
mỹ. Con người tìm về Thiên Chúa không phải chỉ vì muốn thỏa mãn óc lý luận muốn
biết nguồn ngốc của vạn vật, nhưng còn vì muốn được hạnh phúc, muốn đạt được
đến sự thiện tuyệt đối. Dựa trên sự phân tích này, T. Tôma Đa canh chủ trương rằng không có sự mâu thuẫn giữa lý tri
và đức tin. Cũng như không có sự đối chọi giữa bản nhiên và ân sủng. Thiên Chúa
đã dựng lên con người theo hình ảnh của mình, đã muốn thông truyền sự tốt lành
của mình cho con người, đã mời gọi con người vào chia sẻ hạnh phúc với mình. Nhờ sống trong tình thân hiệp, con người duy trì
hết tất cả các mối liên hệ theo trật tự. Lý trí tùng phục Thiên Chúa, thân xác
tùng phục linh hồn. Tiếc rằng tội lỗi đã làm xáo trộn tất cả trật tự đó. Không
những Adam đã mất những ân huệ tình nghĩa với Chúa, nhưng còn mất luôn sự kiểm
soát các quan năng của mình. Vì thế mà trong tình trạng xa ngã, con người mang
nhiều thương tích. Tuy nhiên, T. Tôma Đa
canh cũng thêm rằng hình ảnh của Thiên Chúa nơi con người vẫn không bị tiêu
diệt. Con người vẫn có khả năng truy tầm chân lý, và làm điều thiện.
IV/ NHẬN ĐỊNH CHUNG
Qua
những trình bày ở trên ta có thể rút ra một vài nhận định về tư tưởng của hai
thánh Agustinô và Tôma Đacanh: Thánh Augustinô trong quan niệm của mình về con
người đã thể hiện rõ vấn đề ân sủng, đã dung hòa với những kinh nghiệm của ngài
trên con đường trở về với Thiên Chúa, thể hiện rõ những suy nghĩ nội tâm. Thánh Augustinô khám phá ra những
điều kỳ diệu của con người theo hướng từ trên xuống, nghĩa là ngài xuất phát từ
những ân sủng của Chúa ban cho con người. Thánh Tôma Đacanh lại đi từ dưới lên.
Ngài xuất phát từ những gì đã có và đang có của thực tại để khám phá ra những
huyền nhiệm nơi con người. Chính vì thế mà ta thấy được tư tưởng của T. Tôma
gần gũi với thực tế hơn, và nó giúp chúng ta dễ nắm bắt hơn. Ta dễ thấy được T.
Tôma như đang kéo thế giới huyền nhiệm, siêu nhiên gần lại với những thực tại
sống động và cụ thể nơi con người. Nhưng điều quan trọng mà cả thánh Augustinô
và thánh Tôma Đacanh đều muốn khẳng định là: con người là một công trình kỳ
diệu của Thiên Chúa, là cầu nối giữa thế giới huyền nhiệm siêu nhiên của Thiên
Chúa với thực tại tự nhiên của vũ trụ.
Anton Nguyễn Chính
Anton Nguyễn Chính
Tài liệu tham khảo:
1. Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học
tây phương, tập III, bt Đỗ Văn, < Nhà
xuất bản TPHCM 2000 >, 370
2. S EROST, Jr,PH.D.BD., Những vẫn đề
cơ bản của triết học, Bd Đông Hương và Kiến văn. Nhà xuất bản Từ Diển Bách
Khoa, bt Hoàng Thái, 346
3. Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh,
Tập 8., 379
[1] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học tây
phương- tập III, bt Đỗ Văn,( Nhà xuất bản tphcm 2000), Tr 42.
[2] S EROST, Jr,PH.D.BD., Những vẫn đề cơ bản
của triết học, Bd Đông Hương và Kiến văn. Nhà xuất bản Từ Diển Bách Khoa, bt
Hoàng Thái. Tr 209.
[3]Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học tây
phương- tập III, bt Đỗ Văn,( Nhà xuất bản tphcm 2000), Tr 60.
[4] S EROST, Jr,PH.D.BD., Những vẫn đề cơ bản
của triết học, Bd Đông Hương và Kiến văn. Nhà xuất bản Từ Diển Bách Khoa, bt
Hoàng Thái. Tr 119.
[5] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học tây
phương- tập III, bt Đỗ Văn,( Nhà xuất bản tphcm 2000), Tr 43.
[6] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học tây
phương- tập III, bt Đỗ Văn,( Nhà xuất bản tphcm 2000), Tr 46.
[7] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học tây
phương- tập III, bt Đỗ Văn,( Nhà xuất bản tphcm 2000), Tr 47.
[8] S EROST, Jr,PH.D.BD., Những vẫn đề cơ bản
của triết học, Bd Đông Hương và Kiến văn. Nhà xuất bản Từ Diển Bách Khoa, bt
Hoàng Thái. Tr 210.
[9] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học tây
phương- tập III, bt Đỗ Văn,( Nhà xuất bản tphcm 2000), Tr 294.
[10] Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh, Tập 8,
Tr 19.
[11]S EROST, Jr,PH.D.BD., Những vẫn đề cơ bản
của triết học, Bd Đông Hương và Kiến văn. Nhà xuất bản Từ Diển Bách Khoa, bt
Hoàng Thái. Tr 121.
[12] Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh, Tập 8,
Tr 83.
[13] Phan Tấn Thành, Đời Sống Tâm Linh, Tập 8,
Tr 94.
[14] Lê Tôn Nghiêm, Lịch sử triết học tây
phương- tập III, bt Đỗ Văn,( Nhà xuất bản tphcm 2000), Tr 248.