Thứ Tư, 11 tháng 4, 2018

ĐOI CHÚT HIỂU VỀ ĐẠO “ÔNG BÀ”

<script async src="https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js?client=ca-pub-8290387625340435"
     crossorigin="anonymous"></script>
Lời nói đầu: Bài nầy được viết do đọc bài “Lễ Gia Tiên hay Ý nghĩa một cuộc trở về nguồn” trong tác phẩm “Về Nguồn” của Giáo sư Vũ Ký, do Trung Tâm Văn Hóa Xã Hội Phật Giáo Việt Nam tại Công Hòa Liên Bang Đức xuất bản năm 2002. Nơi đây xin góp thêm một số ý mong mở rộng thêm một “tinh hoa của truyền thống dân tộc”. N.T.
Không rõ thuật ngữ “ĐẠO ÔNG BÀ” xuất hiện vào thời nào trong ngôn ngữ Việt Nam, có thể đã rất lâu đời trong dân gian. Trong văn chương bác học, có lẽ từ khi bắt đầu có chữ Nôm vì danh từ “Ông Bà” quá nôm na đối với giới sĩ phu Nho học trước đó (người viết chỉ phỏng đoán, chứ không có dữ kiện để xác định).
Lâu nay, nói đến “Đạo Ông Bà”, ta thường nghĩ đấy là việc “thờ cúng tổ tiên” và hàng năm, vào ngày Tết Nguyên Đán thường có “Lễ Gia Tiên” được xem là nghi thức, là cách thức thể hiện “Đạo Ông Bà” hầu khắp cả nước trong lúc việc “giỗ cúng ông bà, cha mẹ” tại mỗi nhà thuộc phạm vi từng gia đình vào từng thời gian khác nhau theo ngày qua đời của ông bà, cha mẹ. Vì quan niệm đơn giản là “Thờ cúng tổ tiên” nên “Đạo Ông Bà” thường được đồng nghĩa với “Đạo Hiếu” nơi Khổng giáo, nói lên lòng yêu thương, phụng dưỡng cha mẹ lúc cha mẹ còn sống và thờ kính, nhớ ơn cha mẹ lúc cha mẹ qua đời. “Đại hiếu chung thân phụ mẫu”, lời nầy của Đạo Nho nói lên đạo đức của con cái là phải suốt đời lo lắng, chăm sóc cha mẹ, vâng lời cha mẹ, không gây buồn phiền cho cha mẹ, không được rời xa cha mẹ và dù phải vì mục đích nào phải xa cha mẹ (vì nghĩa vụ đối nước non, dân tộc) thì cũng phải luôn luôn nhớ nghĩ đến cha mẹ, tạo nên tiếng tốt, việc tốt cho cha mẹ vui lòng, làm hiển danh cha mẹ. Người Việt Nam đã tiếp thu Đạo Hiếu nầy qua Khổng giáo (thật ra đạo Hiếu đã có sẵn nơi Đạo Ông Bà) và còn kết hợp ‘Hiếu’ với ‘Thảo’ để thành “Đạo Hiếu Thảo” (không rõ đạo Nho có nhấn mạnh đến chữ ‘Thảo’ hay không, có gọi là ‘Đạo Hiếu Thảo’ hay chỉ là ‘Đạo Hiếu’ không thôi, kính xin các bậc cao minh chỉ giáo cho người viết – ‘Thảo’ có nghĩa ‘nhường nhịn, chia xẻ, san sẻ, bù đắp’ cho nhau chứ không ganh tỵ, ích kỷ, tranh giành giữ riêng cho mình. Như thế, ‘Thảo’ chỉ cách đối xử, liên hệ giữa vợ chồng, con cái, anh chị em luôn yêu thương, hòa thuận trong hiện tại cũng như lâu dài về sau; điều nầy càng nâng chữ ‘Hiếu’ lên một bậc vì khiến cha mẹ vui lòng được thấy con cái luôn luôn thuận hòa, gắn bó, thương yêu, giúp đỡ nhau. Có lẽ, do ý nghĩa nầy mà người Việt Nam đã ghép chung từ ‘Hiếu’ với từ ‘Thảo’ ).
Do hiểu “Đạo Ông Bà” riêng theo nghĩa “Đạo Hiếu” nên người Tây Phương thường gọi “Đạo Ông Bà” là ‘Le culte des ancêtres’ (sự thờ cúng tổ tiên). Nếu chỉ ‘thờ cúng tổ tiên’ không thôi thì chưa thể gọi là “Đạo” và dân tộc nào hầu như cũng đều có tục ‘thờ cúng tổ tiên’ như ta dù hình thức có khác. Người phương Tây, tuy không có bàn thờ ông bà trong nhà, không tổ chức cúng vái, mâm cỗ, nhang đèn, không tụ họp gia đình, không mời bà con thân thích trong ngày giỗ cúng nhưng lại có ngày “Fête des Morts”, (ngày lễ Toussaint) và họ thăm viếng nghĩa trang, tu bổ mồ mả; lại có những ‘Fête des Mères’, ‘Fête des Pères’, ‘Fête des amoureux’ (ngàyValentin) ngay lúc cha mẹ, vợ chồng còn sống và trao nhau tặng vật. Đấy là những tục lệ hay đẹp của người phương Tây; riêng về sự tưởng nhớ ông bà trong ngày ‘Lễ tưởng niệm người chết’ (fête des Morts) không lắm tính cách long trọng, thiêng liêng như ở Việt Nam. Vì thế, sự ‘tưởng niệm ông bà’ của người phương Tây là một mỹ tục chứ không trở thành một ‘Đạo’ như đối với người Việt chúng ta.
Người viết nghĩ rằng “Đạo Ông Bà” của người Việt Nam mang nhiều ý nghĩa cao sâu hơn ngoài việc ‘nhớ ơn và thờ phụng ông bà’.
1) Trước tiên, ta gọi là “Đạo Ông Bà”. Từ “Đạo” vừa là ‘đạo lý’ vừa là ‘con đường’. “Đạo lý” vì nói lên nguyên lý hướng dẫn tư duy và hành động cùng thái độ cư xử của con người trong cuộc sống cộng đồng. “Con đường” vì những nguyên lý đó đưa dẫn con người hướng đến cùng tìm về một thứ gì đó tốt đẹp, cao sâu, huyền nhiệm để cuộc sống thường nhật mang lấy một ý nghĩa cao quí. Từ “Đạo” nơi “Đạo Ông Bà” không hẳn giống với từ “Đạo” nơi các Tôn giáo như Đạo Phật, Đạo Chúa. Từ “Đạo” nơi các tôn giáo, theo người viết, bao gồm những tín lý, tín điều được nêu thành qui điều, ‘nguyên tắc’, định chế, giáo luật, giới răn, giới cấm, những nghi lễ nhất định phải theo và được khuôn ép vào một hệ thống lý luận cùng tổ chức (giáo hội, hàng ngũ tu sĩ, tăng ni) thực hành riêng biệt theo từng tôn giáo. Từ “Đạo” trong “Đạo Ông Bà” không có những tính cách đó. “Đạo Ông Bà”, thoạt tiên chỉ là một “Tín ngưỡng” (niềm tin và sự ngưỡng vọng về niềm tin đó) trước khi là ‘tín lý’ (do luận giảng của mọi người về sau); cũng không là ‘tín điều’ vì không có những nguyên tắc, những ‘giới luật, giới răn, giới cấm’, những lễ nghi nhất định, không do pháp chế áp đặt cũng không tuân thủ theo một hệ thống tri thức rao giảng cùng hành động thực hiện nhất định, không có tổ chức thành giáo hội, không có hàng ngũ đóng vai trò chỉ đạo, dẫn dắt; không có nơi thờ phượng nhất định như nhà chùa, nhà thờ; không có kinh kệ, không có truyền giảng cũng chẳng nhằm giáo huấn ai theo lối trường ốc. Dù có được mở rộng sự biết ơn và thờ cúng ông bà thành sự biết ơn và thờ phụng tổ tiên cả dòng họ (các từ đường) cùng danh nhân, anh hùng, liệt sĩ (các đền thờ, đình miếu) thì cũng không ra ngoài tính cách tín ngưỡng hơn là tôn giáo. Đạo Ông Bà nặng về tình cảm hơn là tín lý, tín điều. Do đó, có thể nói “Đạo Ông Bà” của người Việt Nam là một “Tín ngưỡng không Tôn giáo” hay nói cách khác: “Đạo Ông Bà tiêu biểu cho tinh thần tôn giáo của dân tộc ta, một thứ tôn giáo không kinh kệ; không giáo luật, giáo quy; không hệ thống tổ chức; không truyền giảng và cũng không nhất thiết tuân theo những lễ nghi nhất định”. Vì là một ‘tín ngưỡng’ nên Đạo Ông Bà thể hiện nơi “tấm lòng”, nơi “tâm khảm” nhiều khi không cần thiết một lễ nghi và cũng không nhất thiết phải vào đúng ngày Ông Bà, Cha Mẹ đã qua đời. Nhà thơ Phương Triều, khi thuật lại cảnh một ông già sống lây lất nơi Xóm Mộ, một nghĩa trang nhỏ vùng quê ông sau cuộc ‘đổi đời’ bi thảm do cộng sản phủ trùm lên nhân dân Miền Nam từ sau 30/4/1975, đã thực hiện “Đạo Ông Bà” trong hiu hắt buồn đau não nùng trong ngày Tết:
-Nghĩa địa góc quen chiều chợt Tết
Ông già mở lại gói đời quên
Bên kia chân mộ còn vuông đất
Lót lá làm mâm đón tổ tiên!….
(Tết, Xóm Mộ)
[chú thích: Đoạn thơ trích trong thi tập “Xóm Mộ” (nxb Lê Huỳnh, Minnesota, Hoa Ky, 2001). Gói đời quên: Ông già luôn mang theo bên mình một bọc trong đó có bài vị và tấm hình của cha mẹ. Gói đời tha thiết nầy đành phải quên vì chế độ cộng sản buộc con người không được nhớ đến ông bà, cha mẹ để chỉ nhớ ơn Đảng và Nhà nước Cọng sản thôi]..
Xin trích thêm một đoạn thơ khác cũng trong thi tập nầy, nói lên nỗi đau buồn, tê tái của kẻ đành rời bỏ quê hương ra đi tìm tự do, nhắn người em bày tỏ niềm ngậm ngùi thương nhớ mẹ cha, ông bà:
-Chừng em có dịp về thăm mộ
Xin thắp giùm anh ngọn nến buồn
Ngồi che gió lạnh cho riêng nến
Không cứ gì thêm những khói hương!
...
Nếu mai không thể về thăm mộ
Mà ngậm ngùi đau chốn viễn phương
Xin em thắp một lần cho nến
Nhìn lụn tàn theo nỗi nhớ thương...
(Thăm mộ)
<script data-ad-client="ca-pub-8290387625340435" async src="https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js"></script>
Vì là một “tín ngưỡng không tôn giáo” nên dân tộc ta dễ dàng dung hợp các tôn giáo du nhập: Phật, Khổng, Lão và cả Ky Tô giáo cũng như mọi kiến trúc tinh thần khác của nhân loại. (Việt Nam chỉ có tôn giáo của mình với hai đạo Cao Đài và Hòa Hảo từ thế kỷ XX. Đạo Thiên Chúa đến Việt Nam kể từ thời Trinh-Nguyễn phân tranh và thời Tây Sơn, không hề có sự bài xích tôn giáo nầy vào hai thời kỳ đó. Chỉ vào dưới các triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức mới có sự kỳ thị tôn giáo nầy và tiếp theo là tình trạng giết hại giáo sĩ và giáo dân do các phong trào Văn Thân, Cần Vương mà lý do chính chưa hẳn do xung đột giữa văn hóa dân tộc (đạo Ong Bà) với Thiên Chúa giáo mà do động cơ chính trị vì các phong trào đó cho rằng giáo sĩ, giáo dân Thiên Chúa giáo hoặc là gián điệp hoặc tiếp tay thực dân Pháp xâm lăng Việt Nam).
2) Ta gọi “Đạo Ông Bà” chứ không gọi là “Đạo Tổ Tiên”. “Tổ Tiên” hoàn toàn chỉ tiền nhân, lớp người quá cố; “Ông Bà”, từ thuần Việt chỉ cả cha mẹ, ông bà hiện còn sống cùng tổ tiên và tiền nhân bao lớp trước dù không cùng dòng họ. Trong ý nghĩa nầy, Đạo Ông Bà mang tính cách truyền thống, nói lên mối liên tục lịch sử của cuộc sống chung, sợi dây liên đới nối kết bao thế hệ quá khứ với thế hệ hiện tại, mối liên hệ không chỉ về huyết thống, dòng họ mà còn về công nghiệp, về thành quả dựng xây được lưu truyền và tiếp tục kế thừa qua lịch sử. Sự thờ cúng, tưởng nhớ ông bà là biểu hiện lòng nhớ ơn bao lớp người đi trước đã cam khổ dựng xây bao công trình tốt đẹp mà nay ta được thụ hưởng. Ca dao Việt Nam có câu:
-Non cao ai đắp mà cao
Sông sâu ai xới ai đào mà sâu?
‘Non kia, sông nọ’ nơi đây, trong một ý nghĩa gần gũi, chỉ đất nước, non sông là công nghiệp bền bỉ lâu dài của bao đời tích tụ đến hôm nay, không chỉ riêng về mặt vật chất mà còn là cái ‘truyền thống văn hóa’ gìn giữ cuộc sống chung hài hòa tốt đẹp lưu truyền từ quá khứ. Tất cả đều là “di sản” của tiền nhân, bao trùm lên tất cả là cái nguồn gốc xa xôi từ khởi thủy của giống nòi. Đạo Ông Bà biểu hiện tấm lòng biết ơn, quí trọng cùng trách nhiệm, bổn phận và ý chí gìn giữ, kế thừa cùng phát huy cái di sản tốt đẹp đó. Điều nầy không do một quyền lực, một nền pháp chế nào áp đặt mà trước tiên phát xuất từ cái ‘não bộ đạo tâm’ (sensorum religieux - xem bài của Vũ Ký), một ‘nguyên lý nội tại’ (principe interne), một yếu tố hay tính chất bẩm sinh nơi con người (xem tác phẩm ‘Về Nguồn’ của Vũ Ký, trang 25), gìn giữ mối liên hệ giữa người chết và người sống, được xem như một ‘di truyền tâm linh’ giữa các thế hệ theo quan điểm ‘Vật Linh’ (animisme). Không giữ được Đạo Ông Bà là đánh mất một tính chất cao quí của giá trị con người và trở nên một cản trở tai hại cho văn hóa tức cho cuộc sống chung của cộng đồng. Đạo Ông Bà, vì thế, là một tín ngưỡng trở thành một thuần phong mỹ tục, một truyền thống tốt đẹp của Văn hóa.
Cũng nên nêu ra đây những trường hợp ông bà, cha mẹ đã làm những viêc xấu xa, lỗi lầm như bán nước, hại dân hay những việc làm tồi bại, đê tiện (trộm cướp, hiếp dâm, giết người, bóc lột, đày đọa kẻ khác,...) thì con cái thực hiện “Đạo Ông Bà”, thực hiện “Đạo Hiếu” ra sao? Dĩ nhiên cha mẹ, ông bà, tổ tiên, tiền nhân chúng ta qua suốt dọc dài lịch sử không lắm kẻ vì hoàn cảnh sống, vì giai đoạn lịch sử đen tối, vì áp đặt của những chế độ bạo tàn và vì óc tư hữu chiếm hữu cao độ đã phạm phải những lỗi lầm, sai trái tầy trời nhưng Đạo Ông Bà không cho phép con cái phủ nhận công ơn sinh thành, dưỡng dục mà phải yêu thương, nhớ tưởng, cúng giỗ, thờ phượng dù âm thầm tủi nhục về hành động của cha ông đồng thời tự thân phấn đấu làm nên việc tốt, việc thiện cùng giữ mình không rơi vào những điều xấu xa của lớp trước hầu làm giảm nhẹ, chuộc tội cho cha ông đối với dư luận và lịch sử chứ không phải tiếp tục các lỗi lầm của ông bà cha mẹ, rồi đổ thừa cho tại vì những ‘gène di truyền’ của dòng họ. Tủi nhục, xấu hổ về những sai trái của ông bà, cha mẹ, hối hận cho ông bà cha mẹ về những việc làm xấu xa của ông bà, cha mẹ và phấn đấu tu sửa mình thành kẻ tốt, làm được những điều hay giúp ích cho người, cho đời để gỡ tội cho ông bà cha mẹ; đấy là thể hiện đúng đắn Đạo Ông Bà trong những trường hợp đó. (Một số cán bộ, cán binh cộng sản đã phản tĩnh quay lại chống Đảng, chống chế độ Cộng sản vì đã nhìn ra, đã hối hận về những sai trái lỗi lầm của cha ông và của mình đã gây ra cho dân, cho nước vì cuồng tín, say mê chủ nghĩa, vì đã lầm lẫn làm công cụ cho Đảng và chế độ bạo tàn; những kẻ đó hiện đang tìm cách trở về sống và thể hiện Đạo Ông Bà truyền thống văn hóa của dân tộc).
3) Đạo Ông Bà thể hiện hướng vọng về nguồn của dân tộc ta. Hướng vọng về nguồn tức tìm về với nguồn cội. Nguồn cội, trong ý gần gũi nhất, chỉ Ông Bà, Tiên Tổ đã xây dựng nên dòng họ mình. Xa hơn chút, nguồn cội là Tổ Tiên lâu đời đã sáng dựng nên dân tộc, quốc gia mà ta thường gọi là quốc tổ. Xa hơn nữa và rộng sâu hơn nữa, nguồn cội chỉ cái yếu tố tiên thiên, nguyên khởi đã ‘sinh thành’ vũ trụ gồm vạn hữu và con người. Cái yếu tố nguyên khởi nầy được gọi theo nhiều danh xưng (xin không dông dài liệt kê nơi đây, trong “Về Nguồn”, giáo sư Vũ Ký đã đề cập). Người viết, dựa theo Đạo học, gọi đấy là Đạo Thể (Être), cái Hữu Thể nền tảng (L’Être fondamental), cái “Nhất Thể Khởi nguyên” đã ‘tự tác động’ mình, tự ‘sắc tướng hóa’, tự ‘đối tượng hóa’ (s’objectiver) mình (nói theo tôn giáo và triết học), tự ‘vật chất hóa’ (se matéraliser) mình (nói theo khoa học) để làm phát sinh vũ trụ hiện tượng (cõi thế gian, cõi tục đế hay cõi hiện hữu) rồi chuyển dịch theo diễn trình tiến hóa của cõi hiện hữu mà hồi phục lại mình cùng đưa vạn hữu trở lại với mình. Khoa học ngày nay đang đi tìm cái ‘Đạo Thể, cái Nhất Thể Khởi nguyên, cái Một nguyên khởi đó hay cái Cội Nguồn của vũ trụ qua những lý thuyết big-bang, tiền big-bang, lý thuyết về sợi (théorie des Cordes) hay gì gì nữa để xác định đấy là năng lượng, là một ‘lượng tử (quanta), một siêu lực (super force), một siêu sợi (super corde) hay một Instanton hoặc gì khác. (Xin không bàn nhiều đến khoa học nơi đây; riêng người viết nghĩ rằng khoa học không thể nào tìm ra theo cái biết luận lý của mình lâu nay nếu không dựa vào Đạo học). Sư việc cái “Một Nguyên khởi” tự tác động mình để từ “Tự Hữu” (en soi) đi vào “Hiện Hữu” (pour soi, để tạo ra cõi Hiện Hữu) là một tác động nhiệm mật, không thể chứng minh. Theo E. Kant là do “Nguyên nhân bởi Tự do” (Cause par Liberté), theo chúng tôi là do cái “Tự do phát khởi nguyên nhân” (Liberté causale) tức là một tác động đột khởi, một hoạt động tự động tuyệt đối (auto-activité absolue), cái năng lực “tự phát hiện” để phát sinh một trạng thái, một sự việc mà tất cả những sự việc về sau giúp soi sáng sự việc tiên khởi đó (xem “Hành trình vào Nhất Thể” của NT&TMX, tập 1, nxb Mekong Tỵ nạn, Newark, CA, 2002). Một điều mà trước nay hầu như chưa một ai lưu ý là “Cái Đạo Thể (Nhất Thể khởi nguyên, cái Một nguyên khởi) luôn luôn dịch chuyển về Tương lai để hồi phục lại mình (Nhất Thể hồi phục) và dòng vận hành chuyển dịch nầy ứng vào dòng diễn tiến sinh hóa của cõi Hiện hữu (vạn hữu và con người) để đưa cõi Hiện Hữu trở về lại với mình. Do đó mà có Lịch sử, có Tiến hóa của cõi Hiện hữu” . Khoa học không để ý vì cho đấy là ý niệm trừu tượng, siêu hình không hợp với luận lý khoa học. Điều nầy, Đạo học, tôn giáo và triết học đã nói nhưng mọi luận giảng trước nay chưa đề cập thật rõ ràng. Đạo Thể hay cội nguồn luôn dịch chuyển về tương lai vì thế hướng đến là tìm về, tương lai là buổi đầu quá Khứ , giờ chung cục chính là thời điểm của Khởi Nguyên. Điều nầy, người xưa đã nói. Jésus đã bảo: ‘Ta là Alpha và Omega, là đầu và rốt’, lời nầy có nghĩa ‘Thượng Đế (từ Ta nơi đây ám chỉ Thượng Đế tức cái Đạo Thế, cái Nhất Thể khởi nguyên hay Cội Nguồn) tạo lập nên vũ trụ rối chuyển dịch theo dòng vận hành sinh hóa của vũ trụ để đưa vũ trụ trở lại với mình vào thời điểm cuối cùng của dòng tiến hóa nên cái Alpha trở về trong Oméga, cái Khởi nguyên trở về trong cái Chung cục. Lời Phật: “Hồi đầu thị ngạn” (quay đầu thấy bến). Bến, theo Kinh điển là Bến giác tức cái thời điểm cùng trạng thái nhìn ra, sống với Tự Thể, Tự Tánh của mình và của chúng sinh. Nhưng chính ra Phật muốn nói đến dòng tiến hóa của nhân sinh. Bến là nơi ta đến, tìm về, bình an, đoàn tụ, thoát hết mọi gian nan, e ngại trong suốt hành trình lênh đênh nơi sông hồ, biển cả (cõi hiện hữu trầm luân). Quay đầu nhìn về nguồn cội mới thấy cái bến bình an, yên vui đoàn tụ đó vì “Cội nguồn dịch chuyển về tương lai”. Đức Khổng đã bảo “Thiên hạ đồng quy nhi thù đồ”; Lão Tử bảo “Phản giả Đạo chi động”, Trang Tử cũng bảo tương tự. Các nhà Tư tưởng Cổ Hy Lạp như Pythagore, Héraclite, cũng cùng ý đó dù chưa thật rõ ràng. Trong những thế kỷ gần đây, Nietzche đã bảo “Sự quy hồi miên viễn của Thể Tính đồng nhiên” (le retour éternel de l’Identique); M. Heidegger viết “Ngày xưa của bình minh trong ngày tới của tương lai” (le jadis de l’aurore dans le futur de l’avenir) và qua thiên cảo luận ‘Le Chemin de Campagne’, nói về dòng vận hành của tư tưởng, đã viết: “Bởi Tiếng gọi (tiếng gọi của Đạo Thể, của cội nguồn) từ một nguyên sơ thăm thẳm, một miền cố quận (Quê hương ban đầu mà ta đã phân ly) được hoàn trả lại cho chúng ta” (Par l’appel en une loitaine Origine, une Terre natale nous est rendue). Rõ ràng nhất là lời của Tôn sư Eckhart: “Thượng Đế chu lưu không biến tính suốt mọi đổi thay (của cõi thế) và tự kết thúc (tự hoàn thành, từ hồi phục) trong đơn nhất tính thể” (Dieu parcourt sans altération tout changement et se clot en unité d’essence). Xin mượn lời thơ để nói về sự việc chuyển về tương lai của cội nguồn:
-Tôi viết tờ thư
Hỏi Trời :
-Thuở trước, cha mẹ sinh ra
Đàn ông hay vốn đàn bà?
Trời rằng:
“Ta tự sinh ta
Thuở mù mịt chẳng có bà, có ông
Chẳng có vợ, chẳng có chồng
Hữu Vô vốn một, Có Không vốn đồng
Cõi Vô thỉ, ấy gốc nguồn
Cõi Vô Chung, ấy chốn cuối cùng của ta.
NT&TMX (Sao Mắt).
Nguyễn Du, do cảm ứng điều nầy, đã phóng tác “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài nhân rồi đặt tên cho tác phẩm của mình là “Đoạn trường tân thanh” (xin không nói nơi đây vì rất dài dòng).
“Đạo Ông Bà” của chúng ta cũng nằm trong ý đó. Ta nên để ý hai từ thuần Việt ‘Ông’ và ‘Bà’. Hai từ nầy chỉ hai giới tính nam và nữ, theo Đạo học là hai yếu tố dương và âm, cặp lưỡng nhất đã kết hợp nhau qua thời gian , sinh thành vạn hữu tức vũ trụ hiện tượng. Vậy, với hai từ ‘Ông và Bà’, Đạo Ông Bà của chúng ta đã nói đến cái cội nguồn phát sinh vạn hữu, trong đó có con người. Niềm hướng vọng về cội nguồn đã hàm chứa nơi hai từ nầy. Vọng về cội nguồn không phải để sống với quá khứ mà chính là để hướng đến tương lai, để soạn sửa, dựng xây tương lai ngay từ hiện tại nầy (xem dưới). Không nhìn ra “sự chuyển dịch của cội nguồn về tương lai”, ta sẽ khó lòng nhìn ra cùng dự đoán dòng diễn biến tiến hóa của nhân sinh qua từng giai kỳ lịch sử cũng như không thấy được ý nghĩa cùng cứu cánh của tiến hóa, của cuộc sống, cuộc đời. Chẳng hạn, cái gì sẽ xảy ra sau cuộc chiến của Hoa Kỳ tấn công Iraq? Hoặc Hoa Kỳ càng thêm điều kiện đẩy mạnh hơn nữa mộng đồ làm chủ thế giới hoặc Hoa Kỳ sẽ trở thành người bạn thật sự của toàn thế giới? Hoặc Hoa Kỳ phải lụn bại vì không thể thắng dược Iraq trong một cuộc chiến trường kỳ; và những hệ quả sẽ xảy ra cho toàn thế giới trong những trường hợp trên như thế nào? (xin không nói rộng thêm).
Vậy, “Đạo Ông Bà” nói lên hướng vọng về nguồn cùng ý hướng hướng về tương lai của dân tộc ta. ‘Hướng vọng về nguồn’ là điều triết học Tây phương từ lâu đã nói, đấy là “nỗi hoài hương hằng thể” (la nostalgie de l’Être), là sự “quy hồi cố quận” (le retour au sol natal) trên nẻo đường tương lai.
4) Đạo Ông Bà còn nói lên cách đối xử giữa người và người với nhau trong hiện tại và về sau. Ta chú ý hai từ thuần việt ‘Ông’ và ‘Bà’. Trong cuộc sống hằng ngày, gặp ai, nói với ai, viết thư cho ai, ta thường bảo: ‘thưa ông, thưa bà’, ngoại trừ giữa gia đình và lúc căn cứ trên niên kỷ thấp cao và thứ bậc trong dòng họ mà ta dùng những đại danh xưng khác trong lúc xưng hô: cha, mẹ, ông bà nội ngoại, cụ, bác, chú, dượng, dì, thím, cô, cậu, anh, chị, con, em... hoặc căn cứ vào chức vụ, cấp bực: Tổng thống, Thủ tướng, Bộ Trưởng, Giám Đốc, Thiếu tướng, Đại Úy, Bác sĩ, Kỹ sư, Tiến sĩ, Luật sư,... Nhưng dù gọi với bất cứ danh xưng nào thì cũng là ‘Ông’ và ‘Bà’ tùy theo đối tượng thuộc giới tính nào. Vậy, hai từ ‘Ông, Bà’ nói lên mối tương hệ, tương giao giữa mọi người trong cuộc sống bình thường của xã hội trong tất cả mọi bình diện sinh hoạt. Giữ mối tương giao đó êm đẹp thì cuộc sống chung của cộng đồng diễn ra vui vẻ, bằng an. Nhất là trong gia đình, dòng họ, giữ được mối tương giao đó hòa thuận, thân ái, gắn bó trong tình thương yêu, đùm bọc cho nhau thì Tổ Tiên, Ông Bà còn sống hay đã qua đời sẽ rất vui lòng, sung sướng. Do đó, “Đạo Ông Bà” không chỉ nói đến đạo Hiếu mà còn nói đến đạo Thảo giữa mọi phần tử trong gia đình dòng họ mà còn cả cách cư xử giữa mọi người để cuộc sống chung của cộng đồng luôn hài hòa, êm đẹp. Vì thế, Đạo Ông Bà không chỉ là tín ngưỡng nơi tấm lòng đối với Ông Bà, Cha Mẹ mà còn là điều phải thực hiện ngay trong cuộc sống xã hội nhân quần.
Với những tính chất trên: tín ngưỡng không tôn giáo; liên tục lịch sử giữa các thế hệ; hướng vọng về nguồn để dựng xây tương lai; thực hiện ngay trong hiện tại mối tương giao thuận hảo giữa người và người, ta có thể nói “Đạo Ông Bà” chính là “Đạo Sống” vừa tâm linh vừa thực tiễn của con người bất kỳ nơi đâu, thời nào, lúc nào, chung cho cả nhân loại. Về mặt tri thức luận, ta có thể xem Đạo Ông Bà là một thứ Siêu Thuyết (métathéorie) của dân tộc ta. “Siêu thuyết”, hiểu theo nghĩa toán học như định nghĩa trong Grand Larousse universel: ‘Siêu thuyết của một lý thuyết diễn dịch nghiên cứu những ý niệm không mâu thuẫn, tự thân túc lý và độc lập của những công lý’ [La métathéorie d’une théorie déductive étudie notamment les concepts de non contradiction, de complétude et d’indépendance des axiomes - Axiome=công lý, theo nghĩa triết học là’ chân lý không thể chứng minh nhưng hiển nhiên đối với ai hiểu được ý nghĩa chân lý đó’ hoặc ‘mệnh đề được nhìn nhận bởi tất cả mọi ngườĩ không cần bàn cãi’ (vérité indémontrable mais évidente par quiconque en comprend le sens - proposition admise par tout le monde sans discussion -theo Dictionnaire ‘Le Petit Robert’ và Dictionnaire Hachette). Từ một Công lý, người ta suy diễn ra những mệnh đề khác gọi là ‘định lý’ (théorèmes) trong toán học]. Với 4 tính chất kể trên, ta thấy “Đạo Ông Bà” của dân tộc chúng ta là ‘hiển nhiên’, tự thân không mâu thuẫn và cũng không mâu thuẫn với một hệ thống lý thuyết hay chân lý nào khác, tự thân túc lý (tự thân trọn vẹn ý nghĩa), và độc lập có nghĩa không phải suy luận từ một định đề (postulat) hay định lý nào khác.
Trên đây là những góp ý để chứng minh tinh hoa truyền thống văn hóa dân tộc chúng ta không chỉ của riêng chúng ta mà bao hàm cả tinh hoa truyền thông văn hóa nhân loại, ứng dụng cho toàn nhân loại suốt mọi thời đại. Rất mong bạn đọc và các bậc thức giả cao minh chỉ giáo cho những điểm người viết còn thiếu sót hoặc có tính cách ‘cường điệu’.
Grenoble, 23/03/2003
Nguyễn Thùy

<script data-ad-client="ca-pub-8290387625340435" async src="https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js"></script>

Chữ Tâm trong chữ Hiếu

Xin tóm tắt một vài dòng giới thiệu chữ tâm trong chữ hiếu được nhìn từ nhiều lăng kính : Thánh Kinh, Hiếu Kinh, Phật Giáo, và trong dân gian.
1. Chữ tâm trong Thánh Kinh.
Chữ Tâm trong Thánh Kinh, bắt nguồn từ "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4, 8), vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi phó nộp Con Một của Người cho thế gian.
"Ðức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta." (Rm 5, 8). Bởi đó, có lệnh truyền "chúng ta hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em" (Ga 15,17). Chữ tâm được biểu lộ cách trọn vẹn nhất là " Chết cho người mình yêu", một chữ tâm đi cho đến tận cùng khả năng của con người, "hết lòng, hết sức, hết cả trí khôn", người Kitô hữu hoàn tất cuộc đời mình trong chữ tâm.
Chữ tâm trong chữ Hiếu ở mười điều răn, được nhấn mạnh trong điều răn thứ tư mở đầu phần hai của Thập Giới, ấn định trật tự của đức ái. Thiên Chúa muốn rằng sau Người chúng ta phải tôn kính cha mẹ, vì đã sinh thành dưỡng dục, và dạy cho chúng ta biết Thiên Chúa. "Hãy trọng kính cha mẹ ngươi, để được sống lâu bền trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi" (Xh 20,12). Thảo Kính cha mẹ, là tương quan phổ quát nhất, nền tảng nhất cho các tương quan khác : Trò đối với thầy, thợ đối với chủ, công dân đối với tổ quốc,...và ngược lại "thảo kính cha mẹ" cũng hiểu ngầm và bao hàm việc cha mẹ có bổn phận với con cái, chủ đối với thợ, thầy đối với trò, người cầm quyền đối với dân...người sống theo đạo hiếu này thì được những phần thưởng thiêng liêng, và những phần thưởng khác của trần thế là an bình và thịnh vượng.
2. Chữ tâm trong Hiếu Kinh.
Chữ tâm trong học thuyết của Khổng Tử, luôn thiên về thực tiễn và lấy đạo nhân làm chủ yếu. Nhân là lòng yêu thương rộng khắp bao trùm cả con người và vạn vật. Người có đạo nhân là người mang trong mình dòng máu yêu thương, lấy yêu thương để hoàn tất mọi sự trong đời. Khổng Tử chỉ rõ, chữ Tâm bắt nguồn từ bản thân đến gia đình, theo lẽ thường, cha mẹ, anh chị em, là người thân thiết nhất, ta phải kính yêu, rồi đối với người ngoài mới có lòng dung thứ và từ ái được. Do đó, vấn đề hiếu đễ, lễ nhạc, có vai trò rất quan trọng trong Nho Giáo, đức Khổng Tử giảng dạy rất kỹ cho thầy Tăng Sâm, phần này sau thành sách Hiếu Kinh, đời Hán nó được liệt vào quyển kinh thứ bảy, sau Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Kinh Dịch và Kinh Xuân Thu.
Hiếu được đặt thành Kinh, cho thấy tầm quan trọng của chữ Hiếu, và trong chữ Hiếu chữ Tâm là quan trọng " Tận tâm kính dường phụ mẫu". Từ việc tận tâm với cha mẹ, người con cũng tận tâm với mọi người "Yêu cha mẹ, ghét người chẳng dám: kính song đường, chẳng dám khinh người". Người yêu kính cha mẹ mình thì thấy cha mẹ người hoặc người già như cha mẹ mình, thì đều yêu kính. Khổng Tử dạy rằng: "Dạy dân thân yêu, chẳng gì hay bằng hiếu; dạy dân lễ nhượng, chẳng gì hay bằng đễ; dời thói đổi tục, chẳng gì hay bằng nhạc; an trên trị dân, chẳng gì hay bằng lễ; lễ đó, kính mà thôi vậy. Cho nên kính của mình cha, thì con đẹp lòng; kính của mình vua, thì bầy tôi đẹp lòng; kính của mình anh, thì em được đẹp lòng; kính một người, mà muôn người được đẹp lòng; phần kính đó là ít, phần đẹp lòng đó nhiều. Ðó là cái gọi là cốt yếu đạo vậy." (Chương 12, sách Hiếu Kinh).
3. Chữ tâm trong Phật Giáo.
Thường trong kinh nói hiếu là mẹ tất cả các công đức, hiếu là gốc của hạnh. Nói đến hạnh là nói đến hạnh của Phật, nói đến đạo hiếu là nói đến đạo của Phật.
Hiếu và Hạnh, đều có tâm làm trọng yếu. Trong nhà Phật thường dạy: Tâm thành thì việc tốt. Tâm thành, dù một việc hết sức bình thường mà tác dụng, kết quả rất to lớn. Cho nên nói tới đạo Phật là nói đến tâm. Việc làm của người con Phật là căn cứ từ nơi tâm. Mọi sinh hoạt của ta phải xuất phát từ tâm chân thành. Lượng bao nhiêu cũng tốt nhưng phẩm chất mới có giá trị.
Nói tới tâm thì ai cũng có tâm. Là người mang trong mình dòng máu đỏ, ai cũng từ cha mẹ sinh ra, có sự sống. Chúng ta có ca tụng cha mẹ sinh ra ta với bao nhiêu nhọc nhằn năm tháng nuôi nấng. Có kể hết một đời cũng chưa xong, nhưng theo đó mà trôi tròn hiếu đạo. Việc làm con, chữ hiếu luôn lấy làm trọng thì thân mới vinh.
Chuyện kể rằng: một tu sỹ nọ, muốn lên Tây phương để tìm gặp Phật Tổ. Nhiều người biết được, nên gửi gắm ước nguyện và phẩm vật của họ cho vị tu sỹ, mong sao khi vị tu sỹ, gặp được đức Phật, thì dâng các lễ vật để cúng dường. Nhưng đường dài, n hiều gian khó, năm lụn tháng chầy vị tu sỹ này quá mệt mỏi, do đó ông quên và bỏ đ i hết những gì bạn hữu gửi gắm. Cuối cùng ông cũng đến được Tây Phương, nhưng khi tới nơi ông mới vỡ lẽ tất cả những gì ông đã vứt bỏ, đều đang ở bên Ðức Phật, lòng thành của mỗi người đã làm cho lễ vật của họ đến với Ðức Phật. Còn vị tu sỹ, phải lãnh nhận quả báo, trở về, lặn ngụp trong bùn nhơ, để mà mò tìm những gì mà ông đã vứt bỏ. Cho nên, nói được thì phải làm được. Có tâm thành thì mới có sự hoàn tất tròn đầy.
Dù cho phẩm vật dâng cho cha mẹ khiêm tốn, giản dị, bình thường với tấm lòng tâm thành, cũng được kể là trọng. Thế nên, Tăng sâm có nói: "Hạnh hiếu đứng đầu trăm hạnh tốt. Hiếu cảm đến trời thì mưa gió hoà thuận, hiếu cảm đến đất thì muôn vật hoá sinh, hiếu cảm đến người thì mọi phúc đều đến". Người cảm được như vậy, nói được và làm được như vậy, chính là người đã làm tròn bổn phận hiếu hạnh của mình đối với cha mẹ. Chủ trương của đạo Phật là chính từ mỗi con người chúng ta phải hoàn bị, đầy đủ, thật trôi tròn nhiệm vụ và tư cách của mình. Bao giờ bổn phận của mình chu toàn thì chung quanh mình được ảnh hưởng. Tinh thần đó bắt nguồn từ tâm thành của mỗi người chúng ta.
4. Chữ tâm trong dân gian.
Nền luân lý bình dân không có tính cách cao siêu, dạy cho ta một quan niệm xử thế tu#êt đích hay một tôn chỉ thoát tục. Mặc dầu, đối với bản thân, nền luân lý ấy khuyên ta có một tư cách cao thượng thanh khiết. "giấy rách phải giữ lấy lề" hoặc " đói cho sạch rách cho thơm". Ðôi khi, ta thấy ảnh hưởng rõ rệt của Nho Giáo mà sự bành trướng vượt ra khỏi phạm vi giai cấp Nho sĩ để ảnh hưởng tới đại chúng bình dân. Ta không thể phủ nhận ảnh hưởng ấy được, vì ngày trước cũng đã có nhiều vị quan đem những điều mình biết về Nho Giáo, rồi đem ra dạy cho dân, và trong dân cũng có nhiều người tài giỏi sống đời ẩn dật mà giúp đỡ dân học cái đạo lý làm người qua các sách Thánh hiền. Sự lớn rộng của Nho phong ấy đi vào từng nếp sống gia đình, cái đạo lý ấy làm cho gia đình có một nề nếp, có một bầu khí kính trên nhường dưới, có tôn ti trật tự gắn bó yêu thương.
Nói thế, người Việt Nam không phải là không có nền luân lý riêng, tuy nó không hệ thống như Nho Giáo, nhưng nó bàng bạc khắp nơi, qua những ca dao bình dân, nền luân lý ấy, đôi khi thật đơn giản, bình thường. Người Việt Nam không nhắm tới việc sống như một ông Thánh mà cốt sao tìm được sự hoà thuận trong gia đình: " Thuận Vợ Thuận chồng, tát bể đông cũng cạn." Hoặc dạy bổn phận làm con, biết ơn cha mẹ : "Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con". Ðơn giản mà dễ hiểu: "anh em thương nhau như thể tay chân", hoà hảo là hơn hết đối với xã hội: "Một sự nhịn, chín sự lành". Lấy lòng nhân quan trọng hơn hết :"Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Sống với nhau cần có một tấm lòng, cái lòng của một luỹ tre xanh mộc mạc, chất phác mà bao công dụng, để rồi đi đâu, cũng nhớ cũng thương tới những luỹ tre xanh ấy.
Xét qua vài góc nhìn về chữ tâm trong chữ hiếu, chúng ta có thể nhận ra rằng, trước khi Kitô Giáo được gieo vào lòng quê Việt Nam, thì từ ngàn đời, Thánh Thần đã chuẩn bị trong tâm hồn người Việt một mảnh đất tốt, để sẵn sàng đón nhận hạt giống Tin Mừng.
Lm. Đôminicô Bùi Minh Sơn



DANG HOA CONG DONG 1

Thứ Ba, 20 tháng 3, 2018

CON NGƯỜI NHẬN BIẾT THIÊN CHÚA THEO NGŨ ĐẠO CỦA THÁNH TÔMA AQUINÔ

Lm. GB. Nguyễn Đăng Trực, OP.
 Năm con đường (ngũ đạo) của thánh Toma được cấu trúc theo cùng một kiểu, rõ rệt nhất nơi 3 con đường đầu tiên. Con đường nào cũng khởi đi từ một kinh nghiệm về những thực tại khả giác: Các sự vật trong vũ trụ có sự biến dịch (đ.1); chúng tác động lên nhau, tạo nên một chuỗi nguyên nhân lệ thuộc (đ.2); Chúng có sinh có diệt, nghĩa là có khởi đầu và kết thúc (đ.3). Chúng có sự hoàn hảo hơn kém, nghĩa là có những cấp độ thiện hảo khác nhau (đ.4); Nhìn tổng thể, người ta thấy chúng có trật tự và hướng đích ngay cả nơi những vật vô tri (đ.5).
Sau đó Ngài áp dụng nguyên lý nhân quả vào từng sự kiện đã quan sát và thấy rằng bất cứ vật gì chuyển động, đều có nguyên nhân chuyển động (đ.1). Không có sự vật nào trong vũ trụ khả giác là nguyên nhân tác thành cho chính mình (đ.2). Chúng có sinh có diệt nhưng không sự vật nào tự bắt đầu hiện hữu (đ.3). Sự thiện hảo hơn kém nơi chúng luôn qui chiếu về hữu thể tối hảo là cùng đích và nguồn mạch của chúng (đ.4). Ngay các sự vật vô tri cũng hành động theo trật tự và có hướng đích tính như thể có sự hướng dẫn của hữu thể toàn tri hay toàn thức (đ.5).
Qua đó, ngũ đão muốn nói lên những giới hạn nơi vạn vật: chúng chịu sự thay đổi khi biến dịch và tác động lên nhau theo tầm mức giới hạn của mình (đ.1+2). Chúng không thể tự sinh, phải nhờ một hữu thể khác mới hiện hữu được (đ.3). Chúng chỉ có một số thiện hảo nào đó thôi, nghĩa là còn bất toàn (đ.4). Mặc dù trật tự trong vũ trụ nói lên một sự thiện hảo nào đó, nhưng cũng nói lên sự liên kết lệ thuộc nhau trong hành động cũng như nơi hữu thể của chúng (đ.5). Nói cách khác, chúng hữu hạn cả ở thể năng động cũng như trong trạng thái tĩnh tại.
Với tính chất bất toàn, hữu hạn đó, chúng không thể giải thích thỏa mãn cái lý hữu của mình, nên nhất thiết phải nại đến một động cơ bất bị động (đ.1). Một nguyên nhân tác thành đệ nhất (đ.2). Một hữu thể tất hữu tự tại (đ.3). Một hữu thể hoàn hảo tuyệt đối, là nguồn mạch cho sự thiện hảo tương đối (đ.4). Một Đấng toàn tri, toàn thức vì trật tự và hướng đích tính là hoa trái của trí tuệ (đ.5).
Một hữu thể như thế, phải ở một bình diện hoàn toàn khác biệt và một bản chất khác hẳn với những sự vật trong thế giới khả nghiệm này.
Đàng khác, luận chứng trong Ngũ đạo được triển khai theo những vòng tròn đồng tâm nên các chứng cứ càng chặt chẽ hơn. Nổi bật nhất là thánh Toma đã đặt vấn đề trên nền tảng siêu hình học nghĩa là không bỏ mất nền tảng hiện hữu như nơi Aristote. Ngài bỏ xa bình diện bản thể là bình diện của yếu tính để vươn sang bình diện hữu thể là bình diện của hiện hữu, vì hữu thể học của thánh Toma không phải là hữu thể học về yếu tính như của Aristote, không thể dẫn tới hiện hữu của Thượng Đế nhưng chỉ dẫn tới một khái niệm về Thượng Đế. Không lạ gì trong chương 13 phần I, tổng luận thần học, Ngài đã dựa vào mạc khải danh Thiên Chúa: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh 3,14) để khẳng định “Đấng Hiện Hữu” là danh xưng thích hợp nhất của Thiên Chúa.
I. ĐƯỜNG THỨ NHẤT DỰA TRÊN BIẾN DỊCH
Biến dịch là chuyển từ cách hiện hữu này sang cách hiện hữu khác. Nói biến dịch là nói cái gì biến dịch, nghĩa là phải có một chủ thể. Theo đó, sáng tạo không phải là biến dịch đúng nghĩa vì trước đó không có gì hết. Nghĩa là không có chủ thể. Sáng tạo từ hư vô. Trong lãnh vực khả nghiệm, có biến dịch về bản thể và biến dịch về tùy thể. Biến dịch bản thể là chuyển đổi từ bản tính này sang bản tính khác như thức ăn trở thành máu thịt. Biến đổi tùy thể là biến đổi từ tùy thể của một chủ thể chuyển sang tùy thể khác cũng nằm trong chủ thể đó. Như biến đổi lượng tính: ốm thành mập hay phẩm tính: đầm độn thành thông minh… Trong thế giới khả giác ta thấy một vật đang chuyển dịch vì nó bị tác động bởi một vật khác và vật này có thể cũng đang chuyển động và do đó cũng bị tác động bởi một vật khác. Do đó không động cơ nào là không bị tác động bởi động cơ khác vì tất cả là động cơ trung gian, vừa tác động vừa bị tác động, nghĩa là vừa nhận lại vừa chuyển vận sự vận động sang vật khác, nên nhất thiết phải công nhận một động cơ bất bị động (unmoved mover) thì mới giải thích được chuyển động trong vũ trụ này.
Con đường thứ nhất của thánh Toma được xây dựng trên hai nguyên tắt: thứ nhất, bất cứ vật gì biến động đều có nguyên nhân biến động. Nguyên tắt này đã được kinh nghiệm chứng thực. Nguyên tắc thức hai: không thể lùi lại về quá khứ đến vô tận trong chuỗi những biến động lệ thuộc nhau, nghĩa là có lùi lại đến bất tận cũng vô ích, vì trong một chuỗi bất tận các động cơ lệ thuộc thì tất cả mọi yếu tố đều là trung gian, vừa tác động vừa bị tác động, nghĩa là vừa nhận lại vừa chuyển sự vận động. Do đó mỗi yếu tố riêng lẻ cũng như toàn bộ các yếu tố trong chuỗi sự vật thuộc thế giới khả nghiệm không thể giải thích được sự chuyển dịch đang diễn ra trong vũ trụ khả giác này.
Bản văn của thánh Toma có tầm quan trọng lịch sử đặc biệt nên chúng ta cần đọc nó để có những nền tảng nhận xét chắc chắn sau này.
Bản văn được trích dịch trong Tổng luận thần học phần I chương 2 mục 3:
“Đường sáng tỏ hơn hết dựa vào chuyển dịch: ai cũng thấy rõ ràng có chuyển dịch trong vũ trụ. Mọi chuyển dịch đều do vật khác tác động. Để một vật chuyển dịch, vật đó phải có tiềm năng, còn vật gây chuyển dịch ở trong thế hiện thể. Gây chuyển dịch là đưa một vật từ tiềm thể (potentiality) sang hiện thể (actuality). Nhưng không thể làm như vậy nếu không nhờ đến một vật đang ở trong hiện thể. Ví dụ, lửa đốt gỗ cháy, lửa trong hiện thể nóng cháy, gỗ có tiềm năng nóng cháy nên gỗ nhờ lửa để đạt tới nóng cháy trong hiện thể.
Nhưng một vật không thể vừa trong hiện thể vừa trong tiềm thể một trật, có chăng chỉ ở nhiều phương diện khác nhau. Thí dụ vật đang cháy (hiện thể) thì không thể cũng có thể cháy (tiềm thể) nhưng cũng cùng một vật đang cháy đó vẫn có thể nguội (tiềm thể nguội). Như vậy cũng một vật theo cùng một phương diện không thể vừa gây chuyển dịch vừa bị chuyển dịch, nghĩa là không có gì tự chuyển dịch. Do đó mọi chuyển dịch đều do vật khác tác động và chính vật khác đó cũng bị chuyển dịch. Và ta không thể lý luận mãi đới vô cùng. Lý do là nếu kéo dài lý luận mãi, sẽ không có đệ nhất động cơ rồi cũng không có bất kỳ vật tác động nào khác bởi lẽ mọi tác động kế tiếp đều nhờ vào đệ nhất động cơ như cây gậy chỉ chuyển động nhờ bàn tay.
Bởi đấy cần có một đệ nhất động cơ, không bị vật khác tác động mà mọi người gọi là Thượng Đế”.
Thánh Toma dùng quá nhiều danh từ chuyên môn của triết học Kinh viện, cho nên, nếu không quen với tư tưởng của ngài, người ta dễ hiểu lầm hoặc hiểu nông cạn đi.
Vậy quan niệm cần phải được chúng ta hiểu đúng là quan niệm chuyển dịch (motion). Đoạn văn nhấn mạnh “gây chuyển dịch là đưa một vật từ tiềm thể sang hiện thể” Khẳng định sự chuyển biến từ năng thể sang hiện thể nhờ một động cơ ở hiện thể.
Như đã biết, đối với Aristote, muôn vật trong vũ trụ đều chịu sự chi phối của tiến trình đổi thay, mà hình thức đổi thay căn bản nhất là sự biến đổi từ tiềm thể sang hiện thể. Aristote đã sử dụng sự tương phản giữa tiềm thể và hiện thể để giải thích tiến trình đổi thay này. Tuy nhiên mối quan tâm của ông là biện minh cho tính ưu thế của hiện thể đối với tiềm thể. Không thể có sự biến dịch từ tiềm thể sang hiện thể nếu trước đó không có động cơ đang ở hiện thể. Theo Aristote, toàn bộ thiên nhiên hết sức nỗ lực đạt tới mọi hiện thể cá biệt của mình: trở thành một cây hoa hoàn hảo, một con người trưởng thành, v.v… Tất cả những nỗ lực này tạo nên một tiến trình qui mô rộng lớn đến nỗi có thể nói mọi thực thể đều ở trong tiến trình đổi thay chuyển từ tiềm thể hướng tới sự thành toàn cao nhất. Để giải thích sự biến dịch có tính bao quát và toàn diện này, Aristote hướng về một động cơ bất bị động như nguyên lý của mọi biến dịch. Do đó động cơ bất bị động được dùng thay thế cho hiện thể và trở thành nguyên lý vĩnh cửu cho mọi biến dịch. Chúng ta rất nên chú ý về sự cách bậc giữa hai quan niệm của Aristote và của thánh Toma về tác động biến dịch. Tác động biến dịch là làm cho một sự vật đang ở năng thể trở thành hiện thể. Cũng một câu này, ở trong hai hệ thống triết học của Aristote và thánh Toma có hai ý nghĩa khác nhau một trời một vực.
Aristote chỉ quan tâm đến vấn đề chuyển dịch của vũ trụ nên ông đã dùng hai khái niệm tiềm thể và hiện thể để cắt nghĩa sự biến dịch ấy. Theo ông chỉ có cách duy nhất giải thích sự biến dịch là phải kết luận có một động cơ bất bị động ở hiện thể, không có chút chi tiểm thể, gọi là hiện thể thuần túy, là nguyên lý của mọi biến dịch, hoạt động từ đời đời vì vũ trụ đã ở thế tiềm thể thực thụ từ đời đời. Không có lúc nào mà không có thế giới sự vật đang biến dịch. Vì lý do này Aristote phủ nhận có một cuộc sáng tạo trong thời gian. Các triết gia Hy Lạp không hề có ý tưởng về sáng tạo, họ nghĩ rằng vũ trụ đã có từ đời đời. Ý tưởng về sự sáng tạo được đưa vào suy tư triết học và thần học là do mạc khải Do Thái – Kitô giáo. Như vậy động cơ bất bị động đối với  Aristote có thể nói chỉ là nguyên lý vô thức của biến dịch và là mô thể nội tại của thế giới. Hay nói theo Etienne Gilson, động cơ bất bị động của Aristote mặc dù là hiện thể thuần túy nhưng chỉ là hiện thể thuần túy trong trật tự tri thức chứ không phải là trong trật tự hiện hữu vì vũ trụ của Aristote không phải là vũ trụ được sáng tạo. Thượng Đế của Aristote không phải là Đấng hiện hữu nên không thể ban hiện hữu, thậm chí cũng không biết mình là đấng hiện hữu (God and philosophy, p.66).
Trái lại, mối quan tâm của thánh Toma là vần đề hiện hữu của vũ trụ. Có sự khác biết rất lớn giữa hai mối quan tâm và do đó cũng có sự khác biệt rất lớn về quan niệm động cơ bất bị động của Aristote và đệ nhất động cơ của thánh Toma. Vì tác động biến dịch của Aristote chỉ đưa một vật ở năng thể thực thụ sang hiện thể, nên ta hiểu vì sao trong hệ thống triết học Aristote không có quan niệm về sáng tạo. Còn nơi tư tượng thánh Toma người ta không thể nói tới năng thể thực thụ bởi vì trước khi sáng tạo, vạn vật không ở thể năng thể theo nghĩa của Aristote nhưng là ở thể hư vô. Đó là ý nghĩa từ sáng tạo của thánh Toma.
Như thế đã rõ, thánh Toma dựa trên biến dịch để chứng minh rằng, có một đệ nhất cơ động, nhưng đệ nhất động cơ của ngài chẳng những đã chuyển vạn vật từ thể năng thể sang hiện thể, mà còn là nguyên nhân của hữu thể vạn vật nữa. Sở dĩ phải đào sâu quan niệm tác động biến dịch của thánh Toma vì nếu quan niệm triết học của ngài như chính “thuyết Aristote sửa chữa đi chút ít” theo kiểu nói của Bergson, thì chúng ta không thể nào đạt tới Thượng Đế sáng tạo được.
II. ĐƯỜNG THỨ HAI DỰA TRÊN NGUYÊN NHÂN TÁC THÀNH
Con đường này khác với con đường thứ nhất ở chỗ không nghiệm xét chính tác động biến dịch nhưng xét đến thành quả của biến dịch.
Chúng ta nghiệm thấy trong thế giới thiên nhiên có mối tương quan nhân quả. Mọi vật hiện hữu hay mọi biến cố xảy ra đều có một nguyên nhân. Trong đó nhiều nguyên nhân chúng ta không thể giải thích thấu đáo được. Nguyên nhân có nhiều dạng thức. Ở đây chúng ta nói về nguyên nhân tác thành. Một nguyên nhân trách nhiệm về hành động của mình khi tác động lên một sự vật khác hay làm cho một hữu thể bắt đầu hiện hữu. Đứa bé vừa sinh ra. Trước đó bé chưa hiện hữu và ai cũng biết bé không thể tự mình hiện hữu. Dĩ nhiên ai cũng khẳng định cha mẹ bé là nguyên nhân hiện hữu của bé. Khẳng định này hiển nhiên là đúng nhưng chưa phải là giải đáp tận căn cho sự hiện hữu của bé. Vì chính cha mẹ bé đã có một thời chưa có mặt trên thế giới. Vậy phải đi ngược lên tới tổ tiên của bé để tìm câu trả lời, nhưng phải đi ngược lên tới bao xa mới có câu trả lời thỏa đáng? Có ngược lên đến vô tận cũng vô ích vì một chuỗi vô cùng những nguyên nhân trong chuỗi nguyên nhân cha mẹ tổ tiên vẫn là những nguyên nhân trung gian nên không thể tìm thấy lý do hiện hữu ở nơi đó. Vì vậy nhất thiết phải truy nhận có một nguyên nhân đệ nhất đứng ngoài chuỗi nguyên nhân trung gia hay lệ thuộc kia và trách nhiệm hoàn toàn về sự hiện hữu của chuỗi nguyên nhân trung gian hay lệ thuộc trong vũ trụ, đồng thời nguyên nhân đệ nhất đó không bị lệ thuộc vào bất cứ nguyên nhân nào khác.
Cần quan niệm cho đúng nguyên nhân đệ nhất và nguyên nhân đệ nhị hay nguyên nhân trung gian mà ta quan sát được bằng kinh nghiệm. Nguyên nhân đệ nhị hay nguyên nhân lệ thuộc luôn luôn có trước các hậu quả của chúng theo diễn tiến thời gian. Còn nguyên nhân đệ nhất lại ở ngoài thời gian. Nguyên nhân đệ nhất không đứng ở đầu chuỗi móc xích nhân quả. Thượng Đế không có trong móc xích đầu tiên của chuỗi móc xích cùng loại với thế giới này. Nếu thiếu một nguyên nhân đệ nhất như thế, thế giới sẽ trở thành không hiểu được, bởi vì không có vật nào trong thế giới khả nghiệm này có thể tìm được nơi chính mình nền tảng cũng như lý do hiện hữu của mình. Vậy hạn từ nguyên nhân đệ nhất không được hiểu theo nghĩa mà khoa học vẫn hiểu.
Bản văn của thánh Toma.
“Đường thứ hai khởi đi từ bản chất của nguyên nhân tác thành: trong thế giới sự vật khả giác, ta nhận thấy có một trật tự giữa các nguyên nhân tác thành. Được biết, không có trường hợp nào trong đó có một vật được coi là nguyên nhân tác thành của chính mình. Nếu có, vật đó phải có trước mình, là điều phi lý, không thể chấp nhận được.
Trong trật tự các nguyên nhân tác thành, nguyên nhân đệ nhất sinh ra một hay nhiều nguyên nhân trung gian, nguyên nhân trung gian sinh ra nguyên nhân sau cùng. Nếu không có nguyên nhân đệ nhất, làm sao có nguyên nhân trung gian và nguyên nhân sau cùng. Nên không thể lý luận mãi như thế được, vì lý luận như thế sẽ không có nguyên nhân tác thành đệ nhất thì cũng chẳng có nguyên nhân trung gian và hiệu quả sau cùng. Đó là điều sai lầm.
Bởi đấy, cần có nguyên nhân tác thành đệ nhất được mọi người gọi là Thượng Đế”.
Ai cũng nhận thấy hai chứng cứ thứ nhất và thứ hai giống nhau như đã nói trên đây. Thành thử không thiếu học giả cho rằng chỉ có một con đường duy nhất và đường đó có 5 phần. Nghĩ như thế là không tôn trọng tư tưởng thánh Toma cho đủ, vì ngài đã viết rõ là quiquae viae (5 con đường). Tuy nhiên không ai chối cãi được rằng năm con đường đó xây dựng cùng một kiểu.
Thánh Toma xây dựng luận chứng của ngài trên hai nguyên tắc chắc chắn: 1) Không sự vật nào có thể tự làm nguyên nhân cho chính mình vì điều đó mâu thuẫn quá: Cho rằng một sự vật có thể làm nguyên nhân cho chính mình tức là nhận rằng nó hiện hữu (với tư cách là nguyên nhân) trước khi nó thực sự hiện hữu (với tư cách là hiệu quả). Vậy mỗi hữu thể phải có nguyên nhân biệt khỏi nó và hiện hữu trước nó. 2) Không thể ngược lên đến vô cùng trong trật tự những hữu thể vừa làm nguyên nhân cho cái khác vừa cần một nguyên nhân cho mình. Nói cách khác ta không thể ngược dòng thời gian mãi, vì như thế vẫn không giải quyết được vấn đề nền tảng của hiện hữu, vì ngược dòng thời gian ta chỉ gặp những nguyên nhân đệ nhị hay nguyên nhân trung gian là những nguyên nhân không tự mình mà có, chúng hiện hữu do một nguyên nhân ở ngoài chúng. Phải có một nguyên nhân đệ nhất ban hiện hữu cho chúng. Đó là ý nghĩa của tác động sáng tạo. Đó cũng là trọng tâm vấn đề siêu hình học về hiện hữu của thánh Toma. Nếu không có nguyên nhân tác thành đệ nhất thì vẫn không thể giải thích được sự kiện những hữu thể trong vũ trụ là những hữu thể cần có nguyên nhân.
Có ý kiến cho rằng nếu toàn bộ vũ trụ là một hệ thống  đóng kín thì toàn bộ các yếu tố vũ trụ đều là nguyên nhân cho nhau trong một hệ thống vòng tròn bất tận, nên không cần một nguyên nhân đệ nhất. Giả thiết này có thể đúng xét về phương diện nó cho biết nguyên nhân tính được chuyển đi như thế nào, còn chính nguyên nhân tính do đâu mà có, đấy mới là vấn đề. Nếu cho rằng nó phát sinh từ vũ trụ xét như một toàn thể thì vũ trụ đó cũng chỉ hiện hữu nhờ các thành phần cấu tạo mà thôi. Các thành phần cấu tạo đều là những nguyên nhân lệ thuộc vừa làm nguyên nhân cho cái khác vừa cần nguyên nhân cho mình.
Lại nữa, trước đây I. Kant đã phủ nhận chứng cứ hữu thể học, thì nay ông cũng phủ nhận chứng cứ dựa trên nguyên lý nhân quả mà nguyên nhân tác thành nằm trong nguyên lý này. Đối với ông, đó cũng chỉ là một trong những nguyên lý của lý trí thuần túy, theo đó lý tính không thể đạt được những vấn đề siêu hình, nên nguyên lý này không có giá trị khi áp dụng cho Thượng Đế, là một thực tại nằm ngoài kinh nghiệm khả giác. Ông cho rằng, những nguyên tắc của trí năng con người chỉ có hiệu lực cho công dụng thực nghiệm (usage emperique) không có hiệu lực siêu nghiệm (usage transcendent) cho nên đi từ những nghiệm xét về vũ trụ tới chỗ quyết có một nguyên nhân siêu việt của vũ trụ là đi quá trớn. Sở dĩ triết học Kant và những học thuyết chịu ảnh hưởng của ông sau này đã đi đến khẳng định như vậy vì bị thôi miên bởi lý tưởng khoa vật lý Newton. Thời đó phần lớn các triết gia xem vật lý học Newton như là một khuôn hình các nguyên tắc tuyệt đối đúng. Tuy nhiên cuối thế kỷ 19, xảy ra cuộc khủng hoảng trên qui mô lớn, khiến người ta đặt lại nhiền vấn đề xưa kia được coi là nền tảng vững chắc bất khả chuyển lay. Sự xuất hiện khoa vật lý hạt nhân hay lượng tử làm nguyên lý tất định lung lay. Thuyết tương đối xuất hiện đưa ra những quan niệm mới về không gian và thời gian. Khoa luân lý hiện đại cũng nhận nhiều giá trị khác nhau, nguyên lý triệt tam của luận lý học học cổ điển không còn bao quát được mọi lãnh vực. Triết học hiện đại cũng không còn thu giảm con đường vào trong trí năng của mình. Một nhà triết học hiện sinh không ngần ngại tuyên bố: hiện dinh đích thực là hiện sinh vươn tới siêu việt.
III. ĐƯỜNG THỨ BA DỰA TRÊN TẤT HỮU
Đường thứ ba dẫn đến khẳng định sự hiện hữu của Thượng Đế phát sinh từ nhận thức về tính bất tất của các sự vật trong vũ trụ. Một cách nôm na, bất tất nghĩa là có thể ra khác (can be other). Tất yếu, không thể khác được (can not be otherwise). Một vật bất tất là một vật có cũng được và không cũng được, một vật có sinh có diệt, có sinh tức là trước chưa hiện hữu, nếu có hiện hữu thì không phải do mình mà cần phải có nguyên nhân cho hữu thể mình. Thường người ta ít bén nhạy về tính bất tất (mỏng dòn, giới hạn) nơi các sự vật, chỉ khi người ta phải đối diện với cái chết của một người thân hay sự sụp đổ của một cơ ngơi, người ta mới ý thức rõ ràng về tính bất tất của các sự vật quanh ta.
Có hai loại hữu thể tất yếu hay tất hữu. Hữu thể tất hữu tự thân hay tự thể (per se), tuyệt đối là hữu thể tự mình có đủ lý do hiện hữu, không phải nhờ hữu thể khác làm nguyên nhân cho mình, là hữu thể luôn luôn hiện hữu, nghĩa là không có bắt đầu hiện hữu cũng không bao giờ thôi hiện hữu luôn luôn ở hiện thể hiện hữu (in actu existentiae). Hữu thể tất yếu giả định hay hữu thể nhận tất yếu nơi hữu thể khác. Tất yếu không phải là ý niệm bất tương hợp với trật tự tạo thành (Summa Contra Gentiles II c.30). Thiên thần thụ tạo linh thiêng tất yếu bất hoại (incorruptible) bất biến (immobile) do quyền năng của Thiên Chúa (Summa Contra Gentiles III c.94).
Dưới đây là đoạn trích văn bản thánh Toma:
“Đường thứ ba dựa vào vật bất tất và vật tất yếu. Ta thấy trong thiên nhiên có những vật có hay không cũng được vì người ta thấy chúng xuất hiện rồi mất đi, nghĩa là chúng có thể có và cũng có thể không. Điều đó cho thấy không nhất thiết mọi vật bất tất luôn luôn hiện hữu. Vì cái có thể có, thì cũng có lúc chẳng có. Nếu tất cả mọi vật đều bất tất thì đã có lúc không có vật nào cả. Nếu giả thiết đúng như thế thì ngay lúc này, chẳng có vật nào hết, bởi vì vật gì vốn không có, nó chỉ bắt đầu có, nhờ vào vật khác đã có sẵn. Giả sử  trước đây không có vật nào, thì bây giờ làm gì có vật nào bắt đầu hiện hữu được. Như vậy hiện thời trên thế giớn chẳng có một vật gì cả. Nhưng thực tế cho thấy ngược hẳn với điều đó. Do đó không phải tất cả hữu thể đều bất tất nhưng phải có một vật tất yếu. Vật tất yếu có hai loại: hoặc nhận tính tất yếu nơi vật khác hoặc tự mình là tất yếu. Và ta không thể đi ngược đến vô cùng trong chuỗi những vật tất yếu có nguyên nhân tất yếu nơi vật khác, cũng như không thể đi ngược tới vô tận trong chuỗi các nguyên nhân tác thành (trung gian) như đã nói ở chứng cứ thứ hai. Vậy phải có một hữu thể tất yếu tự tại. Chính hữu thể ấy là nguyên nhân của tính tất yếu nơi các hữu thể tất yếu khác. Mọi người gọi là Thượng Đế”.
Etienne Gilson cho thấy thánh Toma đã hoàn toàn theo cách chứng minh của nhà hiền triết Do Thái Moses Maimonides (1135) để nêu lên sự kiện hữu thể bất tất và tất yếu. Thánh Toma cũng làm như Maimonides là đặt ra ba giả thuyết: 1) Không vật nào sinh ra và diệt đi hết. Giả thuyết này bị kinh nghiệm thường ngày bác bỏ ngay , vì ai cũng thấy có những vật sinh và diệt trong vũ trụ. 2) Tất cả vạn vật đều sinh ra và diệt (không có hữu thể tất yếu nào cả). Giả thuyết này cũng không thể nhận được, vì nếu tất cả đều sinh và diệt tức thị tất cả đều bất tất, mà bất tất thì đã có lúc chúng không có và đã không có thì chúng không thể tự chúng bắt đầu có và như vậy vẫn không có hữu thể nào hết. Kinh nghiệm cho hay: có những hữu thể trong vũ trụ. Cho nên giả thuyết thứ hai này cũng không chấp nhận được. 3) Có những vật bất tất có sinh có diệt và cũng có hữu thể tất yếu không sinh và không diệt. Thực ra đây không còn phải là giả thuyết nữa nhưng là kết luận nhất thiết phải được chấp nhận sau khi chúng ta thấy không thể chấp nhận hai giả thuyết trên kia.
Tóm lại, những sự vật chúng ta quan sát trong vũ trụ thảy đều sinh và diệt, đều bất tất. Và nếu có lùi lại tới vô tận trong chuỗi những vật bất tất đó cũng chẳng giải quyết được gì. Vì một vũ trụ gồm toàn những vật bất tất, nghĩa là những vật cần phải có một nguyên nhân cho sự khởi đầu hiện hữu của mình, mãi mãi vẫn là chuỗi bất tất, không thể tự hiện hữu được. Vì tất cả đều bất tất nên đã có lúc vũ trụ này là hư vô hoàn toàn. Bởi vì hư vô đó không thể tự sinh ra hữu thể. Vì giả thuyết đó vô lý, nên chúng ta phải công nhận rằng ngoài những hữu thể bất tất ra còn có hữu thể tất yếu. Đó là hữu thể chúng ta đang tìm kiếm và gọi Ngài là Thượng Đế.
IV. ĐƯỜNG THỨ TƯ DỰA TRÊN CẤP HỮU THỂ
Qua kinh nghiệm, ta thấy trong vũ trụ các sự vật có mức độ chân thiện mỹ hơn kém nhau. Nói hơn kém là bao hàm cái tuyệt mức trong một loại nào đó. Như khi nói về cái đẹp: A đẹp, B khá đẹp, C tuyệt đẹp là muốn qui chiếu về cái đẹp tuyệt đối. Nghĩa là ABC không phải là chính cái đẹp, nhưng chỉ dự phần hay phản ảnh phần nào cái đẹp tuyệt đối. Như thế khi sự thiện hảo được thể hiện theo những mức độ khác nhau nơi nhiều sự vật thì không sự vật nào tự bản chất giải thích được sự hiện hữu của sự thiện hảo đó. Nó phải qui chiếu về nguồn mạch của nó, một sự toàn hảo tự tại.
Dưới đây là trích bản văn thánh Toma.
“Đường thứ tư dựa vào mức độ hoàn hảo nơi sự vật, vì tương quan khác nhau với cái tuyệt đối, nên các vật có mức độ tốt đẹp, chân thật và cao quí hơn kém khác nhau. Thí dụ: Vật nóng hơn vì nó gần gũi  hơn với vật nóng nhất. Như vậy phải có điều gì tuyệt đối chân thật, tuyệt đối thiện hảo và tuyệt đối cao quí, nghĩa là vật đó tuyệt đối hiện hữu: vì điều gì tuyệt đối chân thật, cũng tuyệt đối hiện hữu (2 metap. 1. cap.1). Đồng thời điều tuyệt đối trong giống là căn nguyên cho cả giống đó. Thí dụ: trong các vật nóng có lửa nóng nhất nên lửa đốt nóng các sinh vật khác.
Bởi đấy cần có nguyên nhân cho mọi hữu thể, cho mọi phẩm tính. Đó là Thượng Đế vậy”.
Cần lưu ý, thánh Toma coi lửa trong trạng thái tinh ròng (pure form) hay lửa tinh ròng (pure fire) có cái nóng tuyệt đối. Còn lửa được xử lý trong thực tế như lửa lò luyện kim… chỉ là lửa phát sinh (derivative fire) nóng tương đối hơn kém.
Một số học giả cho rằng chứng cứ thứ tư thuộc loại những luận chứng hữu thể học nghĩa là đi từ một phẩm tính chuyển qua lãnh vực hữu thể quá vội vã. Hơn nữa có người cho rằng chứng cứ này có lối đi của biện chứng pháp Platon và dựa vào thuyết thông phần của ông ta nữa. Như trong cuốn “bữa tiệc rượu” (the banquet), Platon viết: “Với cái đẹp (tuyệt đối) làm mục tiêu, phải vươn cao không ngừng bằng cách lần theo như những nấc thang từ một hình thể đẹp, đến hai hình thể đẹp, từ hai hình thể đến mọi hình thể đẹp, rồi từ những hình thể đẹp đến những việc làm tốt đẹp, tiếp đến tự những việc làm tốt đẹp đến những tri thức tốt đẹp, cho đến lúc tiến thêm nữa, người ta đạt đến cái tri thức mà tôi đã nói, cái tri thức không còn đối tượng nào khác ngoài cái đẹp tự thân”.
Thực ra chứng chứ thứ tư trong tổng luận thần học, thánh Toma chỉ phác một con đường khả dĩ đưa tới Thượng Đế. Trong cuốn De Potentia III,5, ngài nói rõ hơn về vấn đề này. Nơi đó chúng ta nhận ra sự khác biệt này: trong khi Platon muốn dừng lại ở đệ nhất của mỗi loại hữu thể, do đó có nhiều đệ nhất khác nhau, thì thánh Toma đi tới sự nhận ra “cha của các linh tượng”.
Như thế thánh nhân tránh được sự kiện nhiều đệ nhất. Đàng khác, thánh nhân không xây dựng chứng cứ của ngài trên ý tưởng chân thiện mỹ. Thực vậy, ngài không chỉ lập luận: nếu có những cấp độ hoàn hảo khác nhau thì tất phải có sự hoàn hảo tuyệt đối mà chúng tham dự vào. Nhưng thánh nhân còn cho rằng sự hoàn hảo tuyệt đối là nguyên nhân của những sự hoàn hảo có những mức độ khác nhau kia. Trên nền tảng siêu hình học hiện hữu đó, sự thiện hảo tuyệt đối cũng là hữu thể tối cao và là nguyên nhân cho mọi hữu thể có sự thiện hảo hơn kém, mà tự bản chất chúng không thể giải thích được sự hiện hữu của mình nên đòi phải có nguyên nhân.
Nói đúng ra, con đường thứ tư không thực sự xây dựng trên những cấp của chân thiện mỹ như người ta thường nói, nhưng xây dựng trên những cấp hữu thể: tự tính chất bất toàn của hữu thể nọ hay hữu thể kia trong vũ trụ, con người có thể vươn tới hữu thể căn nguyên tối hậu toàn hảo là Thượng Đế.
V. ĐƯỜNG THỨ NĂM DỰA TRÊN NGUYÊN NHÂN CỨU CÁNH
Nhìn chung, chúng ta thấy thế giới có trật tự và định hướng. Và như ta đã biết, trật tự và hướng đích tính là hoa trái của trí tuệ. Mọi tác nhân hành động vì một mục đích. Tuy nhiên ảnh hưởng của mục đích có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tùy theo bản tính của tác nhân: nơi tác nhân có lý trí, mục đích hiện diện như một ý hướng trực tiếp tác động đến tác nhân vì được tác nhân nhận thức như một sự thiện hay giá trị đáng ước mong, đồng thời thu hút và thúc đẩy tác nhân hành động. Theo nghĩa này, mục đích mới thực sự là nguyên nhân. Còn nơi tác nhân vô tri, ảnh hưởng của mục đích chỉ là gián tiếp, vì chúng không lựa chọn mục đích nhưng được áp đặt bởi chính sự cấu tạo của bản tính chúng. Nói cách khác là được ghi khắc vào ngay trong sự cấu tạo tự nhiên (bản năng làm tổ của tò vò…).
Dưới đây là trích dịch đoạn văn thánh Toma:
“Đường thứ năm dựa vào việc điều hành vạn vật. Ta thấy dù vật vô tri cũng hướng về một mục đích. Hầu như lúc nào hoạt động của chúng cũng hướng tới chỗ tuyệt hảo. Như thế tất không do tình cờ nhưng phải do định hướng. Vật vô tri chỉ có thể hướng về mục đích nhờ có một chủ thể hữu tri vì như mũi tên phải nhờ xạ thủ bắn đi.
Bởi đấy cần có một đấng hữu tri điều khiển vạn vật về một mục đích. Chính Ngài là Thượng Đế”.
Đọc nhan đề, chúng ta tưởng chứng cứ này sẽ bàn luận về việc điều hành vạn vật, nhưng khi đọc bản văn trên đây, chúng ta chỉ thấy thánh Toma chú trọng về cứu cánh của mỗi sự vật trong thiên nhiên mà thôi. Thực ra nguyên nhân cứu cánh phải hiểu cả về hai nghĩa, vừa nghĩa là mỗi vật có khuynh hướng tìm sự thiện hảo cho chính mình, nó vừa có nghĩa là vạn vật đều qui về chí thiện, do đấy chung đúc nên một trật tự hoàn mỹ. Nghĩa thứ hai được thánh Toma nói đến trong Summa Contra Gentiles (c.13, số 35) nới đó ngài đã theo tài liệu của thánh Joan Damasceno để suy luận về trật tự vũ trụ, nên ngài không để ý nữa trong văn bản trên đây. Chính ý nghĩa thứ hai này, vũ trụ học Big Bang ngày nay khi nghiên cứu tiến trình hình thành vũ trụ phải công nhận rằng: vũ trụ được điều chỉnh một cách hài hòa và chính xác như tồn tại một mục tiêu nhất định: “Vật lý càng tiến bộ thì các hiện tượng mà người ta tin là hoàn toàn tách biệt lại có thể thống nhất với nhau… Vũ trụ đang hướng về MỘT” (Mathieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận: cái vô hạn trong lòng bàn tay, p.78-79).
Dựa trên nguyên lý “mọi tác nhân đều hành động hướng về mục đích của nó” chứng cứ có thể đi cả con đường “những vật vô tri” cả con đường “những vật có lý trí”. Thánh Toma chỉ cần lấy chứng cứ nơi những vật vô tri, những vật này hành động như thể có tri thức về cứu cánh của chúng, vì ta thấy chúng hành động luôn theo một đường lối và đường lối này dẩn chúng đạt tới cứu cánh của chúng. Bởi vì ta biết rõ chúng vô tri cho nên ta phải kết luận rằng có một cái chi có tri thức hướng dẫn chúng tới cứu cánh của chúng.
Tuy nhiên khi thuyết tiến hóa của Charles Darwin được chấp nhận rộng rãi, người ta lý giải trật tự vũ trụ thông qua cách tham chiếu các qui luật đấu tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên. Họ cho rằng thế giới như một cơ thể trên đà tiến hóa, sự thích ứng của cơ thể ấy với môi trường là bằng chứng của chủ đích trong thiên nhiên. Họ biện luận rằng nếu chủ đích tồn tại trong thế giới là bằng chứng cho sự hiện hữu của một trí tuệ tối thượng là Thượng Đế thì làm sao giải thích được cái ác và đau khổ… Vì tất cả những hiện tượng ấy rõ ràng không phải là chủ đích của Thượng Đế toàn thiện, toàn thức. Chúc ta đã bàn đến trong tiết về sự dữ.
TỔNG KẾT
Trên đây chúng ta đã đưa ra vài nhận xét về giá trị của mỗi chứng cứ cũng như nhận xét của một số học giả cho rằng ngũ đạo của thánh Toma cần được bổ túc thêm bằng con đường gọi là con đường siên hình học. Tuy nhiên Etienne Gilson lại cho rằng Ngũ đạo của thánh Toma thực sự ngấm ngầm dựa trên nền tảng siêu hình học rồi. Muốn khai thác được giá trị siêu hình học của ngũ đạo, chúng tao phải nhận định về sự khác biệt gần như vô cùng giữa vũ trụ quan của Aristote và vũ trụ quang của thánh Toma. Trong vũ trụ của Aristote là vũ trụ không ai sáng tạo nên và là vũ trụ hằng hữu không cần đến Đấng sáng tạo. Trái lại khi thánh Toma định nghĩa biến dịch là mang một năng thể sang hiện thể, ngài đã ngấm ngầm nghĩ đến sự sáng tạo và nguyên nhân sáng tạo mà trong câu kết của mỗi con đường, ngài gọi là Thượng Đế. Theo ngài, hiện hữu của vạn vật hoàn toàn tùy thuộc vào Thượng Đế, do đó ngài đã viết một câu có tính quyết định này “Now every creature may be compared to God, as the air is to the sun which enlightens it” (S.T. Ia, q.104, a.1). Vạn vật đối với Thượng Đế cũng như không trung đối với mặt trời chiếu sáng, nghĩa là vạn vật lệ thuộc một cách tuyệt đối vào Thượng Đế và chẳng những tùy thuộc vào Ngài để chúng có thể hiện hữu mà còn lệ thuộc vào Ngài trong sự bảo tồn của chúng nữa. Sự tùy thuộc này thuộc lãnh vực hữu thể học, nghĩa là không có Thượng Đế thì không sao hiểu được sự hiện hữu của chúng. Vì thế thánh Toma đã ví hiện hữu của vạn vật như không trung đối với ánh sáng mặt trời. Hễ mặt trời giãi ánh sáng vào thì không trung sáng lên và hễ mặt trời rút ánh sáng của nó đi thì không trung rơi vào tăm tối. Do đó hễ Thượng Đế ban hiện hữu cho vạn vật thì chúng hiện hữu và hễ Ngài rút tay lại thì mọi vật liền rơi vào hư vô.
Tóm lại, muốn đạt đến nguồn mạch của chứng sứ siêu hình học, cần thiết phải nhìn vào bản chất của tác động sáng tạo bởi vì hiện hữu của vạn vật đều tuyệt đối lệ thuộc vào tác động đó. Với điều kiện đó, chứng cứ của thánh Toma mới dẫn chúng ta tới Thượng Đế thực hữu, chứ không chỉ dẫn đến động cơ đệ nhất của Aristote.
Đàng khác, ngũ đạo của Thánh Toma không chỉ đơn thuần là những luận chứng mang tính cách thiết kế, nếu không, người ta có thể suy diễn Thiên Chúa của Toma chỉ là Thiên Chúa của “tự nhiên thần thuyết” (Deism). Tuy nhiên người ta khám phá ra trong con đường 5, thánh Toma không chỉ bận tâm giải thích phương cách các tập hợp phức tạp gồm các thành phần thể hiện chức năng hướng đích và chỉ giới hạn luận chứng vào các vật vô tri, rập theo khuôn mẫu thiết kế đơn thuần. Trái lại, Ngài đã nhấn mạnh một thứ trật tự, hoa trái của một trí tuệ thực sự hướng dẫn như một sự quan phòng, không chỉ sắp xếp các vật vô tri vào một trật tự hài hòa của riêng chúng nhưng cùng với các loài khác đem lại sự thiện hảo cho tất cả thụ tạo vô tri hay hữu tri. Thánh Toma không đối lập thiết kế với quan phòng vì quan phòng có thể bao hàm thiết kế nhưng không ngược lại.
Và trong con đường thứ 2, ý niệm về những nguyên nhân tác thành không chỉ nhằm phát sinh các hiệu quả nhưng còn giải thích sự thiện hảo được bố trí cách khéo léo trong chính những nguyên nhân ấy nữa. Sức nóng tự bản chất là gây hư hại nhưng trong vũ trụ, người ta còn nhận thấy sức nóng trở nên hữu ích cho sự sống các sinh vật, phát sinh từ một sự hài hòa bền vững (hệ thống mặt trời cùng với bầu khí quyển…) nói nên một sự quan tâm của chuỗi những nguyên nhân đệ nhị lệ thuộc cho tới nguyên nhân cuối cùng. Điều đó diễn tả sự quan phòng của Thiên Chúa. Một sự thiết kế đơn thuần không thể có sự quan tâm tinh tế như vậy được.