Xin
tóm tắt một vài dòng giới thiệu chữ tâm trong chữ hiếu được nhìn từ nhiều lăng
kính : Thánh Kinh, Hiếu Kinh, Phật Giáo, và trong dân gian.
1. Chữ tâm trong Thánh Kinh.
Chữ
Tâm trong Thánh Kinh, bắt nguồn từ "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Ga 4,
8), vì Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi phó nộp Con Một của Người cho
thế gian.
"Ðức
Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi; đó là bằng chứng
Thiên Chúa yêu thương chúng ta." (Rm 5, 8). Bởi đó, có lệnh truyền
"chúng ta hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương anh em" (Ga 15,17).
Chữ tâm được biểu lộ cách trọn vẹn nhất là " Chết cho người mình
yêu", một chữ tâm đi cho đến tận cùng khả năng của con người, "hết
lòng, hết sức, hết cả trí khôn", người Kitô hữu hoàn tất cuộc đời mình
trong chữ tâm.
Chữ
tâm trong chữ Hiếu ở mười điều răn, được nhấn mạnh trong điều răn thứ tư mở đầu
phần hai của Thập Giới, ấn định trật tự của đức ái. Thiên Chúa muốn rằng sau
Người chúng ta phải tôn kính cha mẹ, vì đã sinh thành dưỡng dục, và dạy cho
chúng ta biết Thiên Chúa. "Hãy trọng kính cha mẹ ngươi, để được sống lâu
bền trên đất mà Ðức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi" (Xh 20,12).
Thảo Kính cha mẹ, là tương quan phổ quát nhất, nền tảng nhất cho các tương quan
khác : Trò đối với thầy, thợ đối với chủ, công dân đối với tổ quốc,...và ngược
lại "thảo kính cha mẹ" cũng hiểu ngầm và bao hàm việc cha mẹ có bổn
phận với con cái, chủ đối với thợ, thầy đối với trò, người cầm quyền đối với
dân...người sống theo đạo hiếu này thì được những phần thưởng thiêng liêng, và
những phần thưởng khác của trần thế là an bình và thịnh vượng.
2. Chữ tâm trong Hiếu Kinh.
Chữ
tâm trong học thuyết của Khổng Tử, luôn thiên về thực tiễn và lấy đạo nhân làm
chủ yếu. Nhân là lòng yêu thương rộng khắp bao trùm cả con người và vạn vật.
Người có đạo nhân là người mang trong mình dòng máu yêu thương, lấy yêu thương
để hoàn tất mọi sự trong đời. Khổng Tử chỉ rõ, chữ Tâm bắt nguồn từ bản thân đến
gia đình, theo lẽ thường, cha mẹ, anh chị em, là người thân thiết nhất, ta phải
kính yêu, rồi đối với người ngoài mới có lòng dung thứ và từ ái được. Do đó,
vấn đề hiếu đễ, lễ nhạc, có vai trò rất quan trọng trong Nho Giáo, đức Khổng Tử
giảng dạy rất kỹ cho thầy Tăng Sâm, phần này sau thành sách Hiếu Kinh, đời Hán
nó được liệt vào quyển kinh thứ bảy, sau Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Kinh Dịch và Kinh
Xuân Thu.
Hiếu
được đặt thành Kinh, cho thấy tầm quan trọng của chữ Hiếu, và trong chữ Hiếu
chữ Tâm là quan trọng " Tận tâm kính dường phụ mẫu". Từ việc tận tâm
với cha mẹ, người con cũng tận tâm với mọi người "Yêu cha mẹ, ghét người
chẳng dám: kính song đường, chẳng dám khinh người". Người yêu kính cha mẹ
mình thì thấy cha mẹ người hoặc người già như cha mẹ mình, thì đều yêu kính.
Khổng Tử dạy rằng: "Dạy dân thân yêu, chẳng gì hay bằng hiếu; dạy dân lễ
nhượng, chẳng gì hay bằng đễ; dời thói đổi tục, chẳng gì hay bằng nhạc; an trên
trị dân, chẳng gì hay bằng lễ; lễ đó, kính mà thôi vậy. Cho nên kính của mình
cha, thì con đẹp lòng; kính của mình vua, thì bầy tôi đẹp lòng; kính của mình
anh, thì em được đẹp lòng; kính một người, mà muôn người được đẹp lòng; phần
kính đó là ít, phần đẹp lòng đó nhiều. Ðó là cái gọi là cốt yếu đạo vậy."
(Chương 12, sách Hiếu Kinh).
3. Chữ tâm trong Phật Giáo.
Thường
trong kinh nói hiếu là mẹ tất cả các công đức, hiếu là gốc của hạnh. Nói đến
hạnh là nói đến hạnh của Phật, nói đến đạo hiếu là nói đến đạo của Phật.
Hiếu
và Hạnh, đều có tâm làm trọng yếu. Trong nhà Phật thường dạy: Tâm thành thì
việc tốt. Tâm thành, dù một việc hết sức bình thường mà tác dụng, kết quả rất
to lớn. Cho nên nói tới đạo Phật là nói đến tâm. Việc làm của người con Phật là
căn cứ từ nơi tâm. Mọi sinh hoạt của ta phải xuất phát từ tâm chân thành. Lượng
bao nhiêu cũng tốt nhưng phẩm chất mới có giá trị.
Nói
tới tâm thì ai cũng có tâm. Là người mang trong mình dòng máu đỏ, ai cũng từ
cha mẹ sinh ra, có sự sống. Chúng ta có ca tụng cha mẹ sinh ra ta với bao nhiêu
nhọc nhằn năm tháng nuôi nấng. Có kể hết một đời cũng chưa xong, nhưng theo đó
mà trôi tròn hiếu đạo. Việc làm con, chữ hiếu luôn lấy làm trọng thì thân mới
vinh.
Chuyện
kể rằng: một tu sỹ nọ, muốn lên Tây phương để tìm gặp Phật Tổ. Nhiều người biết
được, nên gửi gắm ước nguyện và phẩm vật của họ cho vị tu sỹ, mong sao khi vị
tu sỹ, gặp được đức Phật, thì dâng các lễ vật để cúng dường. Nhưng đường dài, n
hiều gian khó, năm lụn tháng chầy vị tu sỹ này quá mệt mỏi, do đó ông quên và
bỏ đ i hết những gì bạn hữu gửi gắm. Cuối cùng ông cũng đến được Tây Phương,
nhưng khi tới nơi ông mới vỡ lẽ tất cả những gì ông đã vứt bỏ, đều đang ở bên
Ðức Phật, lòng thành của mỗi người đã làm cho lễ vật của họ đến với Ðức Phật.
Còn vị tu sỹ, phải lãnh nhận quả báo, trở về, lặn ngụp trong bùn nhơ, để mà mò
tìm những gì mà ông đã vứt bỏ. Cho nên, nói được thì phải làm được. Có tâm
thành thì mới có sự hoàn tất tròn đầy.
Dù
cho phẩm vật dâng cho cha mẹ khiêm tốn, giản dị, bình thường với tấm lòng tâm
thành, cũng được kể là trọng. Thế nên, Tăng sâm có nói: "Hạnh hiếu đứng
đầu trăm hạnh tốt. Hiếu cảm đến trời thì mưa gió hoà thuận, hiếu cảm đến đất
thì muôn vật hoá sinh, hiếu cảm đến người thì mọi phúc đều đến". Người cảm
được như vậy, nói được và làm được như vậy, chính là người đã làm tròn bổn phận
hiếu hạnh của mình đối với cha mẹ. Chủ trương của đạo Phật là chính từ mỗi con
người chúng ta phải hoàn bị, đầy đủ, thật trôi tròn nhiệm vụ và tư cách của
mình. Bao giờ bổn phận của mình chu toàn thì chung quanh mình được ảnh hưởng.
Tinh thần đó bắt nguồn từ tâm thành của mỗi người chúng ta.
4. Chữ tâm trong dân gian.
Nền
luân lý bình dân không có tính cách cao siêu, dạy cho ta một quan niệm xử thế
tu#êt đích hay một tôn chỉ thoát tục. Mặc dầu, đối với bản thân, nền luân lý ấy
khuyên ta có một tư cách cao thượng thanh khiết. "giấy rách phải giữ lấy
lề" hoặc " đói cho sạch rách cho thơm". Ðôi khi, ta thấy ảnh
hưởng rõ rệt của Nho Giáo mà sự bành trướng vượt ra khỏi phạm vi giai cấp Nho
sĩ để ảnh hưởng tới đại chúng bình dân. Ta không thể phủ nhận ảnh hưởng ấy
được, vì ngày trước cũng đã có nhiều vị quan đem những điều mình biết về Nho
Giáo, rồi đem ra dạy cho dân, và trong dân cũng có nhiều người tài giỏi sống
đời ẩn dật mà giúp đỡ dân học cái đạo lý làm người qua các sách Thánh hiền. Sự
lớn rộng của Nho phong ấy đi vào từng nếp sống gia đình, cái đạo lý ấy làm cho
gia đình có một nề nếp, có một bầu khí kính trên nhường dưới, có tôn ti trật tự
gắn bó yêu thương.
Nói
thế, người Việt Nam không phải là không có nền luân lý riêng, tuy nó không hệ
thống như Nho Giáo, nhưng nó bàng bạc khắp nơi, qua những ca dao bình dân, nền
luân lý ấy, đôi khi thật đơn giản, bình thường. Người Việt Nam không nhắm tới
việc sống như một ông Thánh mà cốt sao tìm được sự hoà thuận trong gia đình:
" Thuận Vợ Thuận chồng, tát bể đông cũng cạn." Hoặc dạy bổn phận làm con,
biết ơn cha mẹ : "Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn
chảy ra, một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con". Ðơn
giản mà dễ hiểu: "anh em thương nhau như thể tay chân", hoà hảo là
hơn hết đối với xã hội: "Một sự nhịn, chín sự lành". Lấy lòng nhân
quan trọng hơn hết :"Lời nói chẳng mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa
lòng nhau". Sống với nhau cần có một tấm lòng, cái lòng của một luỹ tre
xanh mộc mạc, chất phác mà bao công dụng, để rồi đi đâu, cũng nhớ cũng thương
tới những luỹ tre xanh ấy.
Xét
qua vài góc nhìn về chữ tâm trong chữ hiếu, chúng ta có thể nhận ra rằng, trước
khi Kitô Giáo được gieo vào lòng quê Việt Nam, thì từ ngàn đời, Thánh Thần đã
chuẩn bị trong tâm hồn người Việt một mảnh đất tốt, để sẵn sàng đón nhận hạt
giống Tin Mừng.
Lm.
Đôminicô Bùi Minh Sơn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét