Anton Công Chính
Con người đang sống trong một xã hội
phát triển về mọi mặt. Những trào lưu của xã hội đã làm cho con người thay đổi
cách sống, cách suy nghĩ và cách hành động. Chính vì thế đã đẩy con người đến việc
tự khẳng định chính mình, cho mọi thứ xung quanh là cái để phục vụ mình. Từ những
suy nghĩ đó đã đẩy Thượng Đế ra khỏi suy nghĩ của họ, coi Thượng đế đã can thiệp
và làm mất tự do của họ. Hạnh phúc con người đạt được không phải là Thượng đế
ban tặng nhưng đó chính là nỗ lực của chính bản thân đã đạt được. Con người có
thể làm tất cả để phục vụ cuộc sống này và con người được hưởng những gì mà họ
đã làm ra. Những thành công hay những thất bại trong cuộc sống tự con người có
thể định đoạt được mà không cần đến sự trợ giúp từ “ơn trên” ban tặng. Thượng Đế
ở trên cao thì cứ ở trên cao chứ đừng để ý đến những chuyện dưới đất này và ngược
lại những người đang sống trong thế giới dương gian hãy sống và làm những gì ở
dương gian, đừng suy nghĩ gì tới những gì ở trên cao, nếu không sẽ đánh mất đi
sự tự do nơi chính bản thân. Bên cạnh đó, Phật giáo đã đề cao việc tự giải
thoát chính mình mà không cần đến Đấng Siêu Việt. Với họ không ai có thể cứu được
bản thân bằng chính bản thân họ, mỗi người phải tự cứu lấy bản thân mình trước
thì mới có thể cứu được người khác. Vì thế, mỗi người Phật giáo ra sức để kiến
tạo hạnh phúc và tìm cách để tự mình có thể đạt đến Niết Bàn, nơi mà không còn đâu
khổ chi phối. Không những Phật giáo mà ngay cả một số người Ki-tô giáo cũng có
những người quan niệm Ân sủng của Thiên Chúa đã đánh mất đi hoặc giảm thiểu ý
chí tự do của họ. Chính vì thế, có những người đã sống rất buông xuôi mà không
cần đến sự cộng tác và tìm kiếm Nước Trời nơi Thiên Chúa. Để rồi yên trí trong
một suy nghĩ, dù mình có tội lỗi như thế nào thì với ân sủng của Thiên Chúa
cũng không làm cho ta xa rời Nước Trời là bao, tất cả rồi sẽ được cứu rỗi.
Đứng trước những vấn nạn như thế, sau
khi tìm hiểu đề tài “Nguyên Tội, Ân Sủng và Sự Công Chính Hóa”, đã cho người viết
những bằng chứng để xác định Ân Sủng của Thiên Chúa và Ý Chí Tự Do của con người
luôn hoạt động cùng nhau chứ không có sự tách biệt hay lấn át trên nhau để rồi
cái này con, cái kia mất.
1/ Ân Sủng của Thiên Chúa
Nói đến Ân sủng của Thiên Chúa là nói đến
tình yêu nhưng không mà Thiên Chúa ban tặng
cho nhân loại. Chính nhờ ân sủng mà con người sau khi phạm tội đã ăn năn và được
trở về với tình yêu của Thiên Chúa. Ân sủng được Thượng Đế ban cho các tín hữu để
chia sẻ vinh quang của Ngài vinh viễn [1].
Ân sủng là ân huệ Thiên Chúa ban một cách tự do và vô điều kiện, giúp con người
tham dự sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi và có khả năng hành động vì tình yêu
dành cho Ngài [2]. Quả
vậy, "ân sủng là sự sinh ra trong một cuộc sống mới, cuộc sống của Thần
Khí, Đấng ban sự sống. Kinh nghiệm về sự sống này là kinh nghiệm của Thánh
Linh. Chế độ của ân sủng là chế độ của Thần Khí. Thần khí, ân huệ tuyệt vời của
Thiên Chúa, minh chứng cho tâm trí chúng ta, bằng một kinh nghiệm chắc chắn rằng,
ân sủng biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa, được quyền gọi Thiên Chúa là
Cha”(Rm 8,15-16). Chính vì thế, ân sủng của Đức Ki-tô là ân huệ nhưng không,
qua đó Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống của Người. Nhờ Thánh Thần, Thiên
Chúa ban sự sống đó vào linh hồn để chữa trị tội lỗi và thánh hóa chúng ta [3]
2/ Ý Chí Tự Do của con người
Trước
hết ý chí tự do gắn liền với bản tính của con người. Ngay cả khi con người phạm
tội, ý chí tự do cũng không bao giờ mất đi, dường như ý chí tự do tiềm ẩn trong
sâu thẳm mỗi người mà chỉ người đó mới có thể biết và thấu hiểu được. Giáo lý về
“ý chí tự do” do James Aminius (1560-1609), người Hòa Lan khởi xướng hay còn được
gọi là học thuyết của Aminius đã cắt nghĩa về ý chí tự do của con người như sau
“Ý chí: mô tả năng lực của tâm trí con người mà nhờ đó con người có thể định hướng
cho tư tưởng hay hành động của mình. Từ ngữ “tự do” có nghĩa là không bị lệ thuộc,
không bị kiểm soát, hay không bị hạn chế bởi bất cứ điều gì. Như vậy ý chí tự
do là khả năng rất đặc biệt mà Thiên Chúa phú cho con người, bởi nó, con người
được tự do chọn lựa và quyết định. Thiên Chúa đã tạo dựng con người rất đặc biệt.
Chúng ta được tự do chọn lựa để vâng lời hoặc không vâng lời Ngài. Thiên Chúa
muốn con người vâng lời Ngài bởi sự tự nguyện chứ không bị tác động bởi một quyền
lực nào khác” [4]. Ý
chí tự do chọn lựa là yếu tố để hành vi con người trở thành hành vi nhân linh, “hành
vi đã được chọn cách tự do theo phán đoán của lương tâm” (GLHTCG 1749). Ý chí tự
do chỉ đạt tới mức hoàn hảo khi con người biết quy hướng về Thiên Chúa là nguồn
hạnh phúc đích thực của họ (x. GLHTCG 1731) [5].
Từ những trích dẫn đó ta có thể nói ý chí tự do là khả năng chọn lựa mà mỗi người
sinh ra cùng với nó. Ý chí tự do chính là ý chí khi nó thuộc về bản tính thiêng
liêng. Nó không bao giờ mất đi, ngay cả khi ý chí ở trong tình trạng nô lệ của
tội [6].
3/ Mối Tương quan Ân Sủng và Ý Chí Tự Do
cùng hoạt động trong con người.
Ân sủng của Thiên Chúa và ý chí tự do của
con người có mối tương quan mật thiết với nhau. Ân sủng của Thiên Chúa và ý chí
tự do của con người không thể tách rời nhau, nếu tách rời hai phạm trù này
riêng rẽ ra thì cũng giống như con cá tách ra khỏi nước. Tương tác giữa ân sủng
của Thiên Chúa và ý chí tự do của con người làm cho tình yêu của Thiên Chúa được
tỏ lộ cách rõ ràng cho nhân loại và nhân loại nhận ra được tình yêu nơi Thiên
Chúa. Chính tình yêu, mà Thiên Chúa đã làm cho mọi sự từ không mà có và ngược lại
từ những thụ tạo Ngài đã làm nên nhận ra và hưởng lấy tình yêu Ngài ban tặng.
Quả vậy, trong tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa với con người và con người
với Thiên Chúa đã tạo nên một sự hợp nhất trong tình yêu. Khi con người đã lạm
dụng tự do Chúa ban để phạm tội, Thiên Chúa không bỏ rơi con người nhưng đã ban
chính Con Một yêu dấu của Ngài xuống để cứu độ nhân loại và đưa nhân loại trở về
với Ngài (x. Rm 8,32). Thực vậy, sự tội đã làm cho con người tốt lành ban đầu
ra hư hoại, chính sự tội này đã làm cho con người xa cách Thiên Chúa về thể xác
nhưng trong sâu thẳm cõi lòng con người luôn quy hướng về Thiên Chúa. Sự tội đã
làm cho ý chí tự do của con người bị tổn thương. Chính vì thế, nhờ ân sủng của
Thiên Chúa, ý chí tự do của con người luôn tìm cách hướng về Thiên Chúa để đẩy
lui những sự tội ra xa.
Ân sủng là quà tặng nhưng không mà Thiên Chúa
ban cho nhân loại, nhưng nhân loại luôn tìm cách chống đối và tìm cách lẩn trốn
thì ân sủng của Thiên Chúa không thể đến
được với nhân loại, nên cần có ý chí tự do của con người để đáp trả và tiếp nhận
thì ân sủng đó sẽ đến được với nhân loại nói chung và trực tiếp trên những con
người đó. Ân sủng của Thiên Chúa và ý chí tự do của con người không nằm trên một
bình diện, cũng giống như hai con ngựa kéo cùng một chiếc xe: Sức kéo của con
này làm nhẹ gánh cho con kia bao nhiêu thì con kia cũng phải bỏ sức ra như vậy.
Giữa ân sủng và tự do là hai hoạt động không nằm trên cùng một trật tự, như
Y.de Montcheuil viết: nó không cạnh tranh nhau và có thể chấp nhận rằng cái này
làm cho cái kia hiện hữu. Trong hành động tốt của tôi, tất cả đến từ hồng ân và
tất cả đến từ tự do, vì chính ân sủng làm cho tôi được tự do, không phải để có
thể chọn, nhưng để hành động một cách tự do ngay tại đây và trong giây phút này
[7].
Qua đó cho ta thấy được giữa ân sủng của Thiên Chúa và ý chí tự do của con người
không lấn át trên nhau hay “cái này có và cái kia” không có nhưng là sự bổ trợ
cho nhau để thực hiện trong bản thể người. Các hành động của bản thể người chỉ
là những hành động đến sau của ân sủng Thiên Chúa và ý chí tự do của con người.
Cũng giống như một đứa trẻ để biết thực trạng đời sống của mình trong thế giới
thì cần có những người hướng dẫn và từ đó làm nền cho đứa trẻ biết khám phá những
bí ẩn xung quanh để được tồn tại trong thế giới bao la này. Thánh Augustino đã
cho ta thấy mối tương quan: ân sủng và ý chí tự do của con người không chỉ là
chiếc cầu khả thể nối con người với Thiên Chúa, nhưng còn là sự hảo tâm của một
con người luôn tự hiến. Trước hết nói không phải và không chỉ là một “trung
gian”, ngay cả sau thời Augustino, người ta đã nói tới hồng ân “tạo dựng” và hồng
ân “công chính hóa” như là một cái gì đó tự hiện hữu [8].
Theo đó, ta có thể hiểu Ân sủng của Thiên Chúa và ý chí tự do của con người là
hai phạm trù luôn hoạt động cùng một lúc, được bổ trợ và hỗ trợ nhau để tỏ lộ
ra bên ngoài bằng chính đời sống hằng ngày nơi người ấy, mặc dù những điều thể
hiện ra bên ngoài không thể nào phản ánh hết những gì bên trong đang có. Người
ta thường nói với nhau “Miệng thì nam mô nhưng lòng chất chứa một bồ dao găm”.
Qủa thế, những điều được người ta thể hiện ra bên ngoài không phản ảnh cách hoàn
toàn cái bên trong và ngược lại những người tiếp nhận cũng không thể nào phản ảnh
được cái bên trong để cho người được cho hiểu hết được. Từ đó, ta có thể xác định
ân sủng của Thiên Chúa không làm giảm thiếu ý chí tự do của con người và ý chí
tự do của con người cùng không làm giảm thiểu ân sủng của Thiên Chúa. Qua đó,
ta có thể nói, ân sủng toàn quyền hoạt động, nhưng nó không cưỡng bức con người.
Và con người không phải là một khả thể tĩnh được đặt đối điện với Thiên Chúa,
nhưng là một sự tự do, được dựng nên cho Thiên Chúa, một tự do mà lời mời gọi của
ân sủng làm cho nó được trở nên hiện thực và khiến nó có khả năng hợp nhất với
cái động năng cư ngụ nơi mình [9].
Một câu châm ngôn trong thần học trung cổ, có thể làm sáng tỏ hơn về sự hoạt động
này đó là “ân sủng không hủy hoại thế giới tự nhiên, nhưng hoàn chỉnh nói”. Thực
vậy, niềm tin không rút ra khỏi hoàn cảnh trần thế. Trái lại: niềm tin trả
chúng ta về với nhiệm vụ trần thế cách khẩn trương hơn, vào các giai đoạn mà nó
phải nhập thể trong các nền văn minh và văn hóa xa lạ với đời sống Ki-tô giáo,
hoặc do bởi quá khứ của chúng, hoặc do bởi tính chất mới mẻ của chúng [10].
Augustino
lưu ý rằng Kinh Thánh mặc khải cho chúng ta về tên của Thiên Chúa và Đấng Cứu
Chuộc là Đấng “giàu lòng thương xót”. Ân sủng là một sự trợ giúp cho ý chí tự
do của con người, khi cho nó khả năng cụ thể để trở thành tự do. A-dam trong
tình trạng vô tội đã hành động trong ân sủng, tức là trong khả năng đích thực để
thực hiện những chọn lựa của tự do, nhưng nguyên tổ đã lạm dụng tự do để phạm tội,
và con người đã bị dục vọng thống trị. Augustinô nói rằng, với tội, Adam đã
đánh mất “tự do”. Tuy nhiên, ân sủng không thay thế ý chí tự do, nó chỉ giúp
cho ý chí này có khả năng thực hiện tự do [11].
Trong cuộc tranh luận giữa Augustino và các đan sĩ ở Adrumète và ở Provence vào
lúc cuối đời đã cho ta thấy mối tương quan cơ bản giữa ân sủng và tự do xứng
đáng với toàn bộ sự hiện hữu của con người. Nó ghi dấu sự khởi đầu của đức tin,
hay là sự sám hối đầu tiên, nó tiếp tục theo đuổi suốt cả cuộc đời, nó tái hiện
khi kết thúc cuộc đời nhờ ơn bền đỗ đến giây phút cuối cùng. Như vậy, ân sủng của
Thiên Chúa vá ý chí tự do của con người không bao giờ mất đi, nó đi theo suốt
cuộc đời con người trên dương gian này để bổ trợ và giúp sức con người trong suốt
cuộc đời.
4/ Kết luận
Từ những
tìm hiểu và phân tích trên cho ta xác định quan niệm ân sủng của Thiên Chúa
không làm mất đi hay giảm thiếu ý chí tự do của con người nhưng là nguồn trợ lực
và hướng dẫn con người hoạt động. Mối liên hệ này cũng giống như “Giê-su học”
và “Ki-tô học” phải đi đôi với nhau: Một Giê-su không phải là Ki-tô thì trống rỗng,
và một Ki-tô không phải là Giê-su thì chỉ là huyền thoại[12].
Từ đó cũng giải thích được, con người không thể tự giải thoát chính mình mà cần
có ân sủng của Đấng Siêu Việt, mà với
con người không thể nào biết và thấu hiểu được, cũng giống như con người
không thể nào diễn tả hết những suy nghĩ trong sâu thẳm cõi lòng cho người khác
hiểu thấu được. Ân sủng luôn hoạt động nơi mọi người thiện chí (MV 22). Ân sủng
hoạt động nơi những người vô tình không nhận biết Đức Ki-tô (GH 16). Qủa thật,
ân sủng đang tác động nơi những anh em ly khai (GH 15). Như vậy, ân sủng của Đức
Ki-tô tràn lan trên hết mọi người không loại trừ ai nhờ Giáo hội (GH 8).
[1]
Marguerite Maria Thiollier Chủ
Biên, Lê Diên dịch. Từ điển tôn giáo, Tr 275.
[2] Ủy Ban Giáo
Lý Đức Tin thuộc HĐGMVN, Từ Điển Công Giáo 500 mục từ, NXB Tôn giáo, Tr 9.
[3]
GLHTCG, Số 1999.
[4] www. Giảng giải Kinh Thánh. Net. Sự tiền định của Đức
Chúa Trời và ý chí tự do của con người của Trần Đình Tâm. Truy cập ngày
27/02/2016.
[6] V.GROSSI và B.SESBOUE do Lm Nguyễn Tiến Dưng,AA dịch.
Giáo trình” Nguyên tội Ân sủng và sự công chính hóa” Tr 243.
[7]
V.GROSSI và B.SESBOUE do Lm Nguyễn Tiến Dưng,AA dịch.
Giáo trình” Nguyên tội Ân sủng và sự công chính hóa” Tr 246.
[8] V.GROSSI và B.SESBOUE do Lm Nguyễn Tiến Dưng,AA dịch.
Giáo trình” Nguyên tội Ân sủng và sự công chính hóa” Tr 243.
[9]
Lm Phero Trần Ngọc Anh. Nhân học
Ki-tô giáo tập 2. Nxb Phương Đông , Tr 363.
[10] La foi des Catholiques, Nhóm phiên dịch:
Phạm Minh Thiện, Tống Việt Hệp, Phan Mạnh Trinh. Niềm Tin Của Người Công Giáo.
Nxb Tôn Giáo. Tr 455.
[11] V.GROSSI và B.SESBOUE do Lm Nguyễn Tiến Dưng,AA dịch.
Giáo trình” Nguyên tội Ân sủng và sự công chính hóa” Tr 245.
[12]
Norbefto Nguyễn Văn Khanh, Ofm. Đức Giê-su Ki-tô Ngôi Lời Nhập Thể. Nxb tổng hợp TPHCM. Tr 31.