Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

CÂU CHUYỆN HỒNG THỦY VÀ ƠN CỨU ĐỘ CỦA CHÚA


       Bạn thân mến:
       Lụt đại hồng thủy được kể lại nhằm giúp mỗi người nhận ra tội lỗi. Từ đó, con người, tội lỗi đã xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người. Đồng thời cũng nói lên tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa trước tội lỗi, Người vẫn để lại một gia đình sống sót qua nạn hồng thủy đó là gia đình Nô-ê, “Thiên Chúa vẽ đường thẳng trên những đường cong”. Và Thiên Chúa đã lập giao ước với con người để con người được ơn cứu độ. Đó là niềm vui và hy vọng của con người sẽ được lãnh nhận từ chính Thiên Chúa, Đấng luôn giữ trọn, trung thành với lời đã hứa.
1.     Nguyên nhân xảy ra câu chuyện nạn Hồng thủy
       Loài người đã sa đọa đến tận thân tâm. Trước sự sa đọa vô phương cứu chữa đó của con người, Thiên Chúa đã phàn nàn, hối tiếc vì đã dựng nên họ. Sách sáng thế (St 6, 5 – 7) diễn tả cho ta biết: Đức Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu xa suốt ngày. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất và Người buồn rầu trong lòng. Đức Chúa phán: “Ta sẽ xóa bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, loài bò sát và chim trời, vì Ta hối hận đã dựng nên chúng”. Lối nói “như nhân” này cho ta thấy tình trạng loài người thê thảm đến mức nào. Tội lỗi đã lan tràn đầy mặt đất, và là một cái gì đó không hiểu được. Việc Thiên Chúa xúc động mạnh cũng có nghĩa việc Người tiêu diệt sự sống trên mặt đất không phải là một cách thản nhiên, lạnh lùng. Nhưng đó như là một hậu quả tất nhiên của tội, một đòi hỏi của sự thánh thiện của Người. Đồng thời súc vật cũng cùng chung số phận với con người là bị tiêu diệt, vì chúng được dựng nên để phục vụ con người.
       Thiên Chúa tỏ ra rất nghiên khắc, nhưng cũng rất nhân từ, khi gìn giữ, cứu sống ông Nô-e và gia đình thoát khỏi lụt hồng thủy, vì ông sống thực thi những lời Đức Chúa truyền dạy, và được đẹp lòng Người (x. St 6,8).     
       Thiên Chúa đã chọn ông Nô-e, Người đã tỏ cho ông, đồng thời cho ông đóng một chiếc tàu. Chiếc tàu có thể chứa được tám người, cùng các con súc vật và những vật dụng cần thiết. Ông Nô-e đã vâng lời Đức Chúa và bắt tay vào việc thực hiện như lời Người phán với một lòng tin tưởng không nghi nan hay hỏi han, thắc mắc điều gì. Như vậy, các sinh vật liên đới với con người trong hình phạt thế nào thì cũng sẽ liên đới trong ơn được cứu sống. Các con vật được đưa vào tàu, với nguồn tư tế thì mỗi loài một đôi. Với nguồn cổ xưa thì mỗi loài thanh sạch là bảy đôi, còn loài ô uế thì một đôi. Còn bảy ngày nữa là lụt hồng thủy sẽ xảy ra, Đức Chúa đã bảo ông đưa gia đình và súc vật thanh sạch cũng như ô uế vào tàu để tránh lụt hồng thủy. Ông Nô-e đã thi hành mọi điều Thiên Chúa truyền cho ông (x.St 7,1-6). Khi gia đình ông và mọi súc vật vào trong tàu, Thiên Chúa đóng cửa tàu lại để nước không vào trong được.
       Năm 600 đời ông Nô-e. Tháng 2, ngày 17 tháng ấy, các mạnh nước của vực thẳm rộng lớn đã bật tung, các cống trời mở toang, nước lũ cuồn cuộn càng lúc càng mạnh trên mặt đất phun lên, và nước mưa trên vòm trời đổ xuống mặt đất bốn mươi ngày bốn mươi đêm (x.St 7,11-12). Mọi núi cao khắp nơi dưới gầm trời đều bị phủ lấp. Mọi xác phàm di động trên mặt đất đều tắt thở. Thiên Chúa xóa sạch mọi loài trên mặt đất, từ con người cho tới gia súc, chỉ còn lại gia đình ông Nô-e và những gì ở trong tàu với ông. Nước lũ cuồn cuộn trên mặt đất một trăm năm mươi ngày (St 7,23-24).
       Khi đã nguôi cơn giận, Thiên Chúa nhớ đền ông Nô-e và mọi thú vật trong tàu của ông. Thiên Chúa đóng các mạnh nước và cổng trời lại, và cho một cơn gió thổi làm cho nước rút đi. Sau bốn mươi ngày, ông thả chim bồ câu trong tàu ra để kiểm tra xem nước đã rút hết chưa. Trong tàu, ba lần ông No-e thả chim bồ câu cho thấy thời tiết thuần hóa dần dần:
       Lần thứ nhất, nó trở về tức khắc, vì nước vẫn tràn ngập hết.
       Lần thứ hai, tới chiều nó mới trở về, mang theo một nhánh ô-liu non.
       Lần thứ ba, ông thả bồ câu ra, và lần này nó không trở về nữa, và ông hiểu là nước đã rút cạn hẳn.
       Ông rỡ nóc tàu và cả gia đình cung súc vật ra khỏi tàu. Ông và gia đình lập bàn thờ và dâng kính Đức Chúa của lễ toàn thiêu các súc vật thanh sạch. Đức Chúa đã ngửi thấy mùi thơm từ của lễ ông Nô-e dâng kính, đã làm cho Thiên chúa nguôi giận. Và Người đã “đơn phương” kí kết giao ước với ông Nô-e, Đức Chúa nói với lòng mình: “Ta sẽ không còn nguyền rủa đất đai vì con người nữa. Hẳn, từ niên thiếu lòng con người vẫn toan tính điều xấu xa, nhưng ta không còn đánh giết mọi sinh vật như ta đã làm! Bao lâu đất này còn, thì mùa gieo mùa gặt, trời lạnh và trời nóng, tiết hạ với tiết đông, ban đêm với ban ngày, sẽ không ngừng đắp đổi” (St 8,21-22).
       Sau đó, Thiên Chúa chúc lành cho gia đình ông Nô-e và thiết lập một trật tự mới sau lụt hồng thủy, loài người được lệnh sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất. Thay vì an bình thư thái thì con người phải chiến đấu, con vật chỉ quỵ lụy con người, khi con người làm cho chúng khiếp sợ. Con người được ăn thú vật, nhưng không được ăn máu chúng vì nó biểu hiện cho sự sống. Một điều nữa là Thiên Chúa cấm kỵ con người làm đổ máu kẻ khác, Người sẽ trừng phạt tử hình kẻ giết người, và ngay cả thú vật làm tôn thương nhân mạng cũng bị giết. Đó là vì con người được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa (x.St 9,1-6).
       Đồng thời Thiên Chúa thiết lập giao ước với ông Nô-e, gia đình và tất cả các loài từ tàu đi ra, cùng với tất cả dòng dõi những người ấy từ này về sau. Thiên Chúa sẽ không bao giờ khiến lụt hồng thủy hủy diệt các vật như trước nữa. Giao ước này được Thiên Chúa đơn phương ký kết với con người mà không cần con người phải cam kết điều gì đối với Người. Đó là một giao ước, một ân huệ, có giá trị như một di chúc. Vì thế mà dấu chỉ minh ước của nó ở giữa trời và đất được chọn là một cái “cầu vồng”. Cầu vồng là một hiện tượng đẹp của trời đất, chỉ sự trường tồn của luật thiên nhiên, tượng trưng cho minh ước vĩnh cửu (St 9,16-17). Mặc dầu tội lỗi và bạo lực nơi con người là nguyên nhân của nạn hồng thủy. Tuy nhiên, lòng thương xót và kiên nhẫn của Thiên Chúa vượt trên những xấu sa đó. Người duy trì lời chúc phúc nguyên thủy và bảo đảm sự trường tồn của vũ trụ, trong đó Thiên Chúa sẽ thực hiện công trình cứu độ.[1]
2.     Ý nghĩa nổi bật của câu chuyện nạn Hồng thủy.
Lụt Hồng thủy được nói đến trong sáng thế và Cựu ước:
Trong sách thánh coi lụt hồng thủy như là một hình phạt thích đáng cho những người quá ư trụy lạc đến vô phương cứu chữa. Tội lỗi đã lan rộng đến mức độ vượt qua cả ranh giới giữa trời và đất, ý nghĩa này được nhấn mạnh trong (St 6,5-8; 8,21-22) là: “lòng con người toan tính điều xấu”. Theo văn hóa Hi-lạp, trái tim trước hết không phải là trung tâm tình cảm nhưng là tri thức và ý muốn. Do đó, điều nhấn mạnh ở đây là toàn bộ suy tư và đời sống con người đã ra xấu xa, tội lỗi không những gây hại giữa người với nhau, mà còn xúc phạm đến Thiên Chúa: Ngài đã “buồn” vì tội lỗi của con người.[2]
Thiên Chúa rất mực thánh thiện và công chính không thể làm ngơ mà không trừng phạt tội lỗi. Hình phạt là một điều chắc chắn mà Thiên Chúa sẽ xét xử và không tội nhân nào thoát được. Nhưng Người vẫn đầy lòng thương xót nhân loại, Người muốn cứu nhân loại bằng cách cứu một phần dư tồn là người công chính là ông Nô-e và gia đình của ông, làm như mầm mống để tái lập nhân loại sau lụt hồng thủy. Và cũng vì thương mà từ nay Thiên Chúa nhẫn nại chịu đựng, không thi hành xét xử “nhãn tiền” với nhân loại tội lỗi.
Lụt Hồng thủy được nói tới trong Tân ước và Kitô giáo:
Trình thuật này đã được vận dụng vào đời sống của Hội thánh một cách hết sức phong phú. Nước hồng thủy được coi như là hình bóng của bí tích Thánh tẩy. Cũng  như nước hồng thủy vừa hủy diệt nhân loại tội lỗi vừa tác sinh nhân loại mới. Nước Thánh Tẩy cũng tha thứ tội lỗi và biến đổi chúng ta thành những con người mới. Đồng thời cũng tiên báo sự xét xử thời cánh chung. Bây giờ, Thiên Chúa đang kiên nhẫn chờ đợi, nhưng ta phải tỉnh thức vì ngày xét xử cũng sẽ đến bất ngờ như thời ông Nô-e và sẽ hủy diệt những kẻ tội lỗi bằng lửa (x. 2Pr 3,2-10).
Trong thư của thánh Phêrô tông đồ (1Pr 3,20) đã ám chỉ con tàu của Nô-e là hình ảnh tiên trưng cho Hội thánh trên đời này. Nhờ con tàu ông Nô-e duy nhất cứu ông và gia đình là phần dư tồn của nhân loại được cứu qua cơn đại hồng thủy, thì những ai sống trong Hội thánh là con tàu dẫn con người tới nguồn ơn cứu độ.[3]  Nô-e cũng là hình ảnh loan báo Chúa Kitô, Đấng là Đầu của nhân loại mới được canh tân trong Chúa Kitô nhờ bí tích Thánh Tẩy (8,20). Nô-e dâng lên Thiên Chúa hiến lễ đẹp lòng Người, và Thiên Chúa đã thiết lập một giao ước bao gồm cả nhân loại chứ không giới hạn cho một dân tộc, như trong sáng thế (St 9,8-11) Thiên Chúa nói với Nô-e: “Đây Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này. Mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy hủy diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa”. Giao ước này loan báo giao ước tối hậu được thực hiện trong Chúa Kitô.
3.     Bài học nạn hồng thủy trong đời sống đức tin.
Nguyên nhân xảy ra trận lụt hồng thủy là do tội lỗi con người. Thiên Chúa đã phạt con người một cách nhãn tiền, cho nước tẩy rửa hết mọi tội lỗi trên mặt đất. Tuy thế, Thiên Chúa vẫn cứu sống một người. Một gia đình biết vâng nghe, tin và thực hành như lời Người truyền dạy cho dù không trông thấy.
Sự sống của con người không do mình tạo ra, mà do Thiên Chúa ban cho. Nên trong cuộc sống thường ngày, con người luôn ý thức Chúa đang hiện diện và đồng hành, hãy ký thác mọi biến cố vui buồn…dâng tất cả lên cho Ngài với lòng biết ơn và yêu mến, như xưa khi ra khỏi tàu gia đình ông Nô-e lập bàn thờ và tiến dâng lên Thiên Chúa của lễ toàn thiêu, của lễ đã được Thiên Chúa ưng nhận.
Là con người thì không thể tránh hết những sai lầm trong cuộc sống. Thiên Chúa là Đấng nhân hậu và giàu lòng thương xót nên đã cứu vớt gia đình ông Nô-e. Do đó, khi con người mắc những sai lỗi với Chúa, với tha nhân thì thật lòng chạy đến với Thiên Chúa để được ơn giao hòa, và được ân nghĩa cùng Người.
Con tàu ông Nô-e trong lụt hồng thủy cũng là hình bóng của con tàu Hội thánh đang lữ hành trần thế. Con tàu đã cứu duy nhất gia đình ông Nô-e ra khỏi lụt hồng thủy. Hội thánh cũng là con tàu cứu độ. Từ đó, có một câu nói danh tiếng: “Ngoài Hội thánh không có ơn cứu độ”[4]. Như vậy, phải chăng tất cả mọi người ngoài Hội thánh công giáo thì không được ơn cứu độ?. Trước băn khoăn đó, Công đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Những người không biết đến Tin Mừng của Đức Kitô và Hội thánh Người mà không do lỗi của họ, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ân sủng, cố gắng chu toàn thánh ý của Ngài bằng các công việc theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể đạt được ơn cứu độ muôn đời”[5]. Như vậy, người không cùng niềm tin tôn giáo với Hội thánh công giáo, mà thực hiện những chỉ dẫn của Công đồng trên thì cũng được ơn cứu độ muôn đời.
4.     Kết luận
Câu chuyện về đại hồng thủy vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Sau nạn hồng thủy, Thiên Chúa đã kí kết giao ước với con người qua muôn thế hệ là sẽ không cho nước tàn phá và giết hết con người sống trên mặt đất nữa (x.St 9,8-11). Và Thiên Chúa đã tỏ tình yêu, lòng thương xót của Người qua việc từ nay Thiên Chúa “nhẫn nại” chịu đựng, không thi hành ngay sự xét xử đối với nhân loại tội lỗi. Đó là một cơ hội tốt cho những ai biết ăn năn trở lại sau những tháng ngày đắm chìm trong “vũng bùn” tội lỗi. Và cũng thật là vô phúc cho những ai không nhận ra tình yêu và lòng thương xót của Chúa khi không tìm đường trở về sau bao phen tội lỗi.
Trong xã hội này, tội lỗi xấu xa cũng không kém phần như trong câu chuyện nạn hồng thủy. Sống trong một xã hội như thế, hình ảnh của ông Nô-e luôn biết lắng nghe tiếng Chúa nói và thực thi lời Chúa truyền dạy cho dù con mắt xác thịt ông không trông thấy. Hình ảnh đó giúp và khơi dậy trong tâm hồn con người ngày nay phải biết lắng nghe tiếng Chúa qua Lời của Ngài trong Kinh Thánh, cũng như trong mọi biến cố cuộc sống. Và thực hành là điều tiên quyết qua việc làm việc lành tránh việc xấu, trở nên người công chính trước mặt Thiên Chúa và con người.
Như thánh tông đồ Phêrô nói trong thư của Ngài là: Anh hãy sẵn sàng trả lời cho những ai chất vấn về niềm tin và niềm hy vọng vào Đấng mà anh em đang rao giảng và hãy trả lời cho họ một cách hiền hòa và kính trọng (x.1Pr 15-16).
                                                                          Nguyễn Văn Đoàn
                                                                             Chỉnh sửa: Công Chính


[1] x. Sách học hỏi Kinh thánh: Tìm hiểu Sáng thế 1-11, tr 112
[2] x. Sách học hỏi Kinh thánh: Tìm hiểu Sáng thế 1-11, tr 112
[3] x. Lm Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao. O.p, Tìm hiểu Ngũ Thư, , tr 123
[4] x. ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Đường Về Emmaus - học Thánh kinh trong 100 tuần, Nxb Tôn giáo, tr 32.
[5] Hiến chế tín lý về Giáo hội, số 16

LỪA DỐI CHÍNH MÌNH


Bạn thân mến:
        Con người là một điều bí ẩn nhất và là nguồn của mọi nhận thức. Không ai có thể hiểu thấu tận căn con người mình. Con người là mỗi quan tâm hàng đầu của tất cả mọi lĩnh vực. Mọi phát sinh, mọi thất bại và mọi ô nhiễm cũng từ con người mà ra. Ngay trong chính bản thân con người mình cũng có sự khác biệt. Cái tay không thể đụng chạm được chính cái tay của nó và ngón tay cũng không thể nào tự đụng đến ngón tay nó. Chính vì vậy, trong con người có sự không hiểu nhau thì làm sao có thể hiểu được người khác cách chắc chắn và chia sẻ cho nhau cách trung thực được. Trong con người luôn có sự chọn lựa xấu hoặc tốt. Trong bản thân con người nhiều lúc chính mình cũng không hiểu chính mình. Nhiều lúc đã tự lừa dối chính mình để được tư lợi cho bản thân. Khi nhìn đến đề tài này chắc các bạn sẽ thật lực cười và đặt ra những câu hỏi mình mà không biết mình thì con làm được chuyện gì ?. Làm sao có sự mâu thuẫn như vậy được ?. Những câu hỏi này sẽ được giải đáp trong phần này. Giúp các bạn phần nào hiểu được chính con người mình. Trong đề tài này tôi sẽ đi vào ba vấn đề mà chính con người tự lừa dối chính mình.
          1/ Ta tự cho phép mình mắc sai lầm. Con người không có cái gì là không có thể làm cả. Ngay cả bản thân mình cùng tự lừa dối mình. Trong con người tiền thức vô thức có khả năng chiếm trọn mọi tính cách và hành động của mình. Tiềm thức vô thức đó một khi trỗi dậy làm chi phối con người ta. Trong con người luôn có sự dằng co giữa ý thức và vô thức. Hai bản năng đó luôn hiện diện trong con người, để điều khiển và thúc giục con người nên làm hay không nên làm. Đó là một sự chọn lựa để sau khi chọn thì lương tâm ta không bị áy láy vì hành động đó. Trong con người, nhiều lúc ta tự cho phép mình mắc những sai lầm. Cho phép mình tự lừa dối chính mình. Đó là cách mà con người tự an ủi mình và giúp mình đứng lên mỗi khi làm những điều sai trái. Trong cuộc sống thường ngày ai cũng có những lúc sai trái nhưng nếu cứ ỷ lại và luôn nghĩ rằng mình được quyền sai trái thì còn gì là ý nghĩa của cuộc sống nữa. Để rồi những điều mình không được phép sai trái mà ta luôn nghĩ mình được phép sai thì công việc và xã hội này sẽ đảo lộn và làm cho bản tính con người luôn chiều theo những việc sai trái. Bạn đã bao giờ khi Cha mẹ bạn nhờ bạn một công việc gì mà bạn không có thích mà bạn lại vâng lời cách nhanh chóng là đi làm luôn không ?. Có bao giờ một việc mà mình không thích mà có ai nhờ bạn sau đó bạn làm ngơ sau khi người đó hỏi lại là bạn quên chư ?. Thực chất trong tất cả mọi cái quên của bạn là bạn nhớ rất rõ nữa. Chỉ vì những lý do ngoại tại nên bạn đã tự lừa dối chính mình là cho phép mình được quên vì chuyện đó để cho tâm trí mình đươc yên.
          Trong Tin Mừng (Mt 21,28-32) có nói tới câu chuyện về hai người con trai. Một hôm người Cha nói với hai người con trai: Người Cha nói với người con thứ nhất rằng: Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho. Nó đáp: Con không muốn đâu. Nhưng sau đó, nó hối hận, nên nó đi. Ông lại đến gặp người con thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: Thưa ngài, con đây! nhưng rồi lại không đi. Qua đoạn Tin mừng trên cho ta thấy có hai cảnh tượng. Một cảnh tượng là trả lời với Cha là không đi. Nhưng sau đó nghĩ lại rồi lại đi. Sở dĩ người con này nghĩ lại vì trong bản tính của con người thường có những phản hồi ngay tức khác. Việc phản hồi đó càng nhanh khi việc được giao là việc mình không thích và không mong muốn. Chính những phản hồi ngay lập tức đó nên thiếu sự suy xét nên dẫn đến những sai lầm. Khi người con này nghĩ lại thì nhận ra là mình đã sai. Trong thâm tâm anh ta cảm thấy mình mắc lỗi với Cha. Vì nghĩ rằng cơm áo ta mặc đều do công ơn của Cha mà hôm nay Cha nhờ con mà con lại không làm thì quả là một điều lỗi lớn đối với Cha. Sự phản hồi của anh ta lúc đó là do bản năng thúc giục anh ta chứ thật sự anh ta không có muốn như vậy. Anh ta tự xác định lại căn tính con người anh ta nên anh ta đã đi. Anh ta đã tự biết mình và không muốn lùa dối sự lười biếng của mình nữa và anh đã quyết định ra đi để sửa sai.
Hình ảnh người con thứ cho ta thấy rất rõ là anh ta đã tự lừa dối mình, tự lừa dối người Cha của mình. Anh ta đã sống hai mặt với chính con người của mình. Khi được người Cha mời gọi anh ta đi làm và anh đã đáp lại cách mau mắn là dạ con đi làm. Nhưng thực chất lúc này trong thâm tâm anh là cứ vâng lời cho qua chuyện để lấy lòng người Cha trước. Còn đi làm hay không là quyền của mình. Trong thâm tâm anh ta là anh sẽ không đi là. Mặt ngoài của anh ta tỏ ra là một người con rất ngoan ngoãn, hiền lành vâng lời Cha cách triệt để. Nhưng trong lòng anh ta thì cả một sự den tối, một sự chống đối Cha cách mãnh liệt. Tự lừa dối mình để được lòng người Cha. Để thể hiện uy tín của mình là người con tốt.
Qua đây, mỗi người trong chúng ta cũng hãy nhìn vào bản thân của ta xem, đã có bao giờ mình sống hai mặt với những người xung quanh Chưa ?. Tôi tin chắc rằng ai trong chúng ta cũng có, không những thế mà còn hại biết bao người nữa là đang khác. Tôi không phải vu khống cho các bạn những điều đó. Tôi xin được lấy một số ví dụ để chứng minh điều của tôi. Các bạn đã bao giờ thật lòng với chuyện thi cử chưa ?. Các bạn đã bao giờ nói dối Cha mẹ chưa ?. Các bạn đã có bao giờ cãi lời cha mẹ chưa. Các bạn đã có bao giờ làm cho Cha mẹ các bạn phải buồn phiền chưa ?. Các bạn đã có bao giờ làm cho người yêu mình phải thất vọng về mình Chưa ? Các bạn đã bao giờ lừa người yêu hay một người bạn nào đó chưa ?. Hàng loạt những câu hỏi đó sẽ là điêm nhấn cho các bạn suy nghĩ về chính mình. Đây cũng là cơ hội không những cho các bạn mà cho chính tôi cũng được nhìn lại bản chất thật con người của mình. Chắc có lẽ bạn và tôi chưa một lần ngồi nhìn lại bản thân của mình có những gì và thiếu những gì, nó đẹp hay nó xấu. Tại vì nhiều lúc chính hành động của tôi cũng không biết là tôi đang làm cái gì nữa. Nhiều lúc tôi không phải là chính tôi. Đó là điều nói dối thứ nhất.
2/ Điều thứ hai trong cuộc sống, mình tự dối mình là luôn khẳng định “việc xấu đó sẽ không sẩy ra đối với bản thân mình và điều xấu đó sẩy ra đến với người khác”. Điều này tự biện minh cho hành động sai trái của mình. Không nhận lỗi làm về mình. Khi một tập thể hay sống trong một làng xóm, chỉ vì tư lợi cá nhân mà mình đã lấy của người khác các đồ dùng nhưng không muốn người khác nghĩ mình là người ăn trộm nên đã tìm đủ mọi cách để đổ lỗi cho người khác để mình không bị mắc vào thói ăn trôm. Nhưng thực chất việc đó lại do mình gây nên.
          3/ Điều thứ ba cho phép mình tự lừa dối mình là luôn tự cho mình là “con nhiều thời gian mà”. Khi một bài kiểm tra Thầy giáo đưa ra để làm nhưng trong thâm tâm chính bản thân ta luôn nghĩ rằng mình còn nhiều thời gian để làm bài này. Bây giờ ta cứ chơi cho thoải mái đã vội gì phải làm gấp gáp như vậy. Chính vì ta tự lừa dối mình nên ta đã để cho thời gian trôi đi cách vô nghĩa. Luôn nghĩ rằng trong khoảng thời gian dài đó chỉ cần hoàn thiện một bài kiểm tra là đủ nhưng ta không ý thức rằng còn biết bao công việc đang còn dở dang chờ ta làm.
          Đó là những điều mà con người thời nào cũng mắc phải không ít thì nhiều. Trong con người có sự tự lừa dối mình nên có biết bao những hành động sai trái, những lời nói làm thương hại đến đồng loại. Luôn tự cho mình là đúng và phủ nhận những sai trái của mình đã làm thương hại đến biết bao nhiêu người. “điều tốt tôi muốn tôi lại không làm còn điều xấu tôi không muốn tôi lại làm”. Đây cũng là một điều mà biết bao con người gặp phải. Chung quy lại cũng chỉ vì bản tính tự biện minh cho những hành động sai trái của mình. Tự lừa dối chính mình để những việc làm sai trái của mình không phải đến từ ý thức của mình mà đến trong vô thức mà thôi. Vô thức tức là một hành động không được suy nghĩ chắc chắn là làm việc đó có hại cho bản thân và cho người khác. Nên tôi lỗi gây ra trong hành động này là do thiếu ý thức nên ta mới làm như vậy mà thôi.
          Không có sự lừa dối nào khủng khiếp cho bằng tự mình lừa dối chính mình. Tự bản thân mình còn như vậy thì nói chi đến xã hội chung quanh. Có biết bao những tại hại gây ra cho môi trường xã hội. Để rồi một xã hội chìm ngập trong sự giả tạo mà chính con người tạo ra. Tự con người hủy diệt chính mình chứ không phải một ngoại tại nào gây nên. Cũng vậy, cái chết của Chúa Giesu không phải của những người biệt phái và phái pha ri sêu nhưng chính chúng ta làm nên cái chết của Ngài. Một cái chết chính người đồng loại giết người đồng loại của mình. Đó là một hành động nghê tởm nhất mà trong thâm tâm con người luôn chất chứa. Thế giới ngày nay cũng đang rơi vào tình trạng con người giết con người. Chỉ vì tính ích kỉ và luôn nghĩ tới bản thân mà làm hại biết bao người vô tội, những con người đang có cuộc sống bình yên.
          Theo con, tự lừa bản thân giống với sự lạc quan và quá tự tin, như những thành kiến khác, nó đều có lợi và hại. Về mặt tích cực, niềm tin không có bằng chứng về bản thân con người và giúp nâng cao hạnh phúc nói chung bằng cách giúp con người đương đầu với stress, nó có thể làm tăng sự kiên trì khi làm những việc khó hoặc tẻ nhạt, làm ta thử những kinh nghiệm mới. Con người khăng khăng lừa dối bản thân một phần để duy trì một hình ảnh về bản thân tích cực. Ta phớt lờ những thất bại của mình, nhấn mạnh những thành công (ngay cả khi chúng không hoàn toàn của ta) và thích đổ lỗi cho người khác và hoàn cảnh bên ngoài khi thất bại. Mặt tiêu cực, tự lừa bản thân có thể làm ta đau khổ rất nhiều khi sự thật cuối cùng được tiết lộ. Nhưng không còn cách nào khác lừa dối bản thân để được hạnh phúc được giờ nào hay giờ đó.
Lừa dối là một chủ đề mà nhiều người ngày nay quan tâm và tự đặt cho mình những suy nghĩ chín chắn để cho mình khỏi bị mắc lừa vì người khác. Thế giới ngày hôm nay sự thật không còn trên của miệng của từng người nữa. Sống với nhau nhưng luôn luôn cảnh giác vì sợ người khác không thật với mình. Một lời ta nói ra luôn để cho người khác suy nghĩ điều đó có thật hay chỉ là một trò đùa. Vì nghĩ rằng bản thân mình còn lừa dối chính mình thì làm sao mà có thế nói sự thật với người khác được.

At Công Chính

Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2013

LÝ TRÍ TRONG SUY TƯ THẦN HỌC CỦA ST TOMA VÀ BONNAVENTURA

Trong suy tưởng của mỗi thần học gia, đều có những con đường khác nhau để tìm đến Thiên Chúa. Nhưng có chung một sự gặp gỡ là tìm mối tương giáo giữa con người và Thiên Chúa. Ở giữa hai lãnh vực con người và Thiên Chúa là một khoảng không bao la để cho các nhà thần học tìm kiếm và làm cho khoảng cách đó gần lại với nhau. Trong thụ tạo có Thiên Chúa và Thiên Chúa có trong thụ tạo. Cả hai kết hợp làm một với nhau trong cùng một dòng suy tưởng để mỗi người có những cách tìm đến Thiên Chúa cách nhanh nhất. Qua St Toma và Bonnaventura ta thấy được mỗi người có cách nhìn khác nhau khi sử dụng “lý trí” để nói về Thiên Chúa và giúp con người nhận ra cùng đích của mình. Trước khi đi vào chi tiết của những dòng suy tưởng của hai Thánh nhân, Ta cùng nhau tìm hiểu đôi chút về cuộc đời của hai Thánh nhân.
A/ Cuộc đời Thánh Toma
          Thánh Thomas Aquinas chào đời vào khoảng cuối năm 1224 đầu năm 1225, tại Roccasecca, gần Naples. Ông xuất thân trong một gia đình quyền quý. Cha ông làm thẩm phán ở Aquino. Thời thiếu thời, ông được giáo dục ở đan viện Monte Cassino. Từ năm 1239 đến năm 1243 ông tiếp tục học tại khoa nhân văn thuộc đại học Paris. Vào năm 1244 ông gia nhập Dòng Thánh Đa Minh, ngược với ý muốn của gia đình. Ông đã học ở Paris từ năm 1245, dưới sự hướng dẫn của Albert the Great tức là Anbeto Cả. Ông là học trò của Anbeto Cả tại đại học Cologne từ năm 1248-1252. Năm 1252 Toma lại đến Paris và bắt đầu một khóa học 4 năm về chú giải và giảng dậy các Luận Đề của Peter Lombard. Năm 1257 ông được công nhận là giáo sư đại học Paris và giảng dạy ở đó cho đến cuối niên khóa 1259. Sau đó, Ông trở về ý và giảng dậy ở Orivieto, Rome và Vierbo. Năm 1269 ông trở về Paris và giảng dạy ở đó trong tư cách là giáo sư đại học. Năm 1272 ông chuyển đến Naples để mở một học viện Đa Minh tại đại học Naples. Năm 1273 ông ngừng giảng dạy để viết lách. Vào tháng 2 / 1274 ông đi dự Công Đồng Chung Lyon. Tuy nhiên, tại đan viện Fossanuova, ngay phía bắc thành phố Naples, ông lâm bệnh ngặt nghèo và đã qua đời tại đó.
          Anbeto Cả thành Cologne, người đã dốc hết tâm huyết để dịch các tác phẩm của Aristote và truyền thống thần học Kito giáo. Những bài chú giải của ông về tác phẩm Aristote rất quan trọng, được viết bằng tiếng Latinh. Chỉ trình bày hiểu biết của mình về quan điểm của Aristote. Toma là học trò của Anbeto Cả nên ông đã truyền cảm hứng cho Toma trong sự hòa hợp truyền thống thần học Kito giáo theo quan điểm của Augustino và tư tưởng của Aristote. Chính vì vậy, trong Bộ Tổng Luận Thần Học của Toma có 39 đề mục tham chiếu của St Augustino và 35 đề mục tham chiếu Aristote.
B/ Cuộc đời Thánh Bonnaventura
          Chúng ta không biết nhiều về thời thơ ấu của thánh nhân. Ngài sinh tại Babnoregio, gần Orvieto, Italia. Có nhiều tranh cãi về cuộc đời của Ngài Nhưng phần lớn cho rằng Ngài chào đời khoảng năm 1217. Ngài bắt đầu theo học cứ nhân vưn chương tại đại học Paris vào khoảng năm 1235. Thánh nhân hoàn tất chương trình tú tài Kinh Thánh vào năm 1248 và dạy Kinh Thánh trong khoảng 2 năm đó. Trong khoảng năm 1250 – 1252, Thánh nhân cho ra đời tác phẩm Chú giải các luận đề của Peter Lombard. Sau đó ít lâu Ngài nhận bằng tiến sĩ thần học. Ngài làm giám đốc học vụ tại đại học Phan sinh ở Paris từ năm 1254-1257. Một điểm rất quan trọng lúc này Ngài là đồng nghiệp của Thánh Toma. Năm 1257 Ngài rời Paris cùng với chức cụ giáo đốc học vụ để phục vụ Hội Dòng trong tư cách là Tổng Phục Vụ thứ 7 của Anh Em Hèn Mọn. Sau những lần xung đột với anh em thì năm 1259 Ngài rút lên núi La Verna thanh vắng là nơi Phanxico đã được in Năm Dấu, để dắm mình sau trong thế giới thiêng liêng của Đấng Sáng Lập. Tháng 5 / 1273, Đức Giao Hoàng Gregory X chỉ định Ngài lên chức Hồng Y. Sau đó cùng với Đức Giao Hoàng đi tới Lyon để chuổn bị cho công đồng Lyon II sẽ được triệu tập vào tháng 5 / 1274. Chỉ 2 ngày trước khi Công Đồng bế mạc thì Ngài qua đời vào Chúa Nhật ngày 15 / 7 / 1274.
I/ Giống nhau:
          Cả hai đã từng là đồng nghiệp của nhau trong cương vị giám đốc học vụ. Cả hai đều có cái nhìn về triết học của Aristotle vào thần học một cách có phê phán. Cả hai đều nhận định không thể tách triết học và thần học cách riêng lẻ nhưng là sự bổ trợ cho nhau. Triết học kết nối với thần học và nhờ thần học mà triết học phát huy hết tiềm năng đích thực của mình. Cả hai đều có cái nhìn về giới hạn của lý trí trong nỗ lực tiến tới chân lý, bởi vì chân lý chỉ được tìm thấy trọn vẹn trong Thiên Chúa mà thôi. Cả hai đều mong muốn có sự hợp nhất giữa đức tin và lý trí. Mục đích của thần học là sự kết hợp giữa tri thức và người tri thức, giúp con người đi từ tiềm thể đến hiện thể của mình. Cả hai đều quan niệm chỉ có mạc khải nơi Thiên Chúa thì con người mới biết cách trọn vẹn nhất.
II/ Khác nhau:
1/ Vai trò của “lý trí” trong suy tư thần học của St Toma:  
St Toma đề cao vai trò của lý trí trong con người. St Toma đã sử dụng ngũ đạo để chứng minh có Thiên Chúa. Lý trí là khả năng Thiên Chúa ban cho con người để con người khám phá ra những chân lý thực tại nơi thụ tạo. Ngài cho rằng mọi nhận thức phải bắt đầu từ kinh nghiệm về đối tượng khả giác thay vì bằng các ý niệm bẩm sinh về sự hoàn hảo. Đặc tính chính của đối tượng khả giác là sự tồn tại của chúng, đòi hỏi phải có nguyên nhân của nó. Dưới ánh sáng tự nhiên của lý trí, trí khôn biết được khi kinh nghiệm các biến cố, hậu quả phải có nguyên nhân, vì không có gì đến từ hư vô. Đối với Ngài “lý trí” không giúp đức tin nhận ra cùng đích của con người nhưng “lý trí” giúp cho đức tin có sự hiểu biết rồi mới tin. Theo Ngài “lý trí” hướng về Thiên Chúa là cùng đích của sự việc. Lý trí đóng vai trò là tiền sảnh, là nền tảng cho một vấn đề nào đó khi nó xuất hiện. Khi một sự vật hiện hữu thì lý trí không chỉ tin một cách mờ quáng, nhưng lý trí tìm về cùng đích của mình là cái gì đã làm nên sự vật này và làm cho nó hiện hữu. Ngoài lý trí ra không có điều gì nhận biết Thiên Chúa hiện hữu. Lý trí là nền tảng của đức tin, nền tảng của thần học. Mục đích của St Toma là giúp con người hiểu về Thiên Chúa là Đấng như thế nào rồi mới dẫn đến một niềm tin sắc đáng chứ không tin một cách mu mơ. Theo quan niệm của St Toma Triết học và thần học không có sự đối chọi nhau, kình địch nhau nhưng triết học và thần học có sự bổ trợ cho nhau và giúp nhau khám phá ra cùng đích niềm tin của mình. Ngài cho rằng: Nữ tỳ là triết học và Bà Hoàng là thần học.
2/ Vai trò của “lý trí” trong suy tư thần học của St Bonnaventura:
Bonnaventura ảnh hưởng bởi ba nguồn tư tưởng là Augustino, Dionysivs và Phanxico. Nên phần nào cũng chịu ảnh hưởng tới tư tưởng của St Bonnaventura. Cũng như St Augustino là tin để hiểu thì St Bonnaventura cũng bắt đầu bằng đức tin, xác tín rằng Đức Kito, Ngôi Lời Hằng Sống của Thiên Chúa là mặc khải trọn vẹn nhất mà Thiên Chúa ban cho thế giới, vì thế con người chỉ có thể tìm thấy chân lý nơi Đức Kito. Từ chân lý này Ngài đã tự tuyên bố là đã khám phá ra chân lý. St Bonnaventura tin rằng tư duy con người dứt khoát phải hưởng đến sự hiểu biết của Thiên Chúa. Chính vì thế Ngài nói rằng: Sự hiểu biết Thiên Chúa trước tiên không phải là nhận thức về Thiên Chúa mà là yêu mến Thiên Chúa. Người ta có được tri thức tối thượng là nhờ ơn soi sáng chứ không phải nhờ suy luận của con người. Khái niệm Mô mẫu Thụ tạo là hình ảnh hay là sự thông dự vào Mô mẫu lý tưởng Thần Linh. Thế giới là một phản ảnh mang tính biểu tượng của thế giới Thần Linh. Qua đó, ta thấy rằng St Bonnaventura có một quan điểm coi trọng “ái cảm” hơn là “tri thức”. Ngài cho rằng: Một khi lý trí nhận ra Thiên Chúa là mục đích tối hậu của nó thì lý trí chỉ muốn kết hợp với Thiên Chúa. Cuối cùng Ngài đưa ra một khái niệm tri thức về Thiên Chúa là: Khi ý chí thức giấc thì tất cả phải lặng yên (Hexaemeron 2.30). Tư tưởng của St Bonnaventura chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi Đấng sáng lập của Hội Dòng Phanxico Assisi. Thánh nhân không chỉ là trung tâm nhưng còn là mặt trời và là sứ vụ của Bonnaventura. Chính vì vậy trong các tác phẩm của Ngài đều nhấn mạnh đến sự suy niệm và việc chiêm ngường này tập trung vào ba lĩnh vực chính yếu: Suy niệm về thế giới tự nhiên, về bản thân con người và bản tính Thiên Chúa.
Kết luận:
Qua những điểm giống và khác nhau nói trên, cho ta nhận thấy cả hai Ngài đã sử dụng những con đường khác nhau để tìm đến Thiên Chúa. Một bên là tin để hiểu còn một bên hiểu để tin. Nhưng cả hai đều không có sự mâu thuẫn, chống đối nhau. Qua đó, niềm tin của ta được củng cố và giúp ta sáng tỏ hơn về Đấng mà ta đang tin thờ. Niềm tin của chúng ta không phải la một sự mê tín nhưng niềm tin của chúng ta phát xuất từ con tim, lòng mến, lý trí hay nói cách khác niềm tin của chúng ta là tất cả con người của chúng ta làm nên một đức tin. Cả con người của ta chính là con người của Chúa. Chính Chúa đang hoạt động và gìn giữ ta trong mọi nơi mọi lúc.   

Ant Công Chính

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

CON NGƯỜI SA NGÃ VÀ ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA


Trình thuật (St, 3) là điểm nhấn rất lớn trong toàn bộ trình thuật Kinh Thánh. Như là cán cân để cân giữa điều thiện và điều ác. Nếu xét cán cân về mặt chữ nghĩa thì cán cân này bị lệch rất lớn và dường như chỉ có điều ác nổi bật. Còn nếu xét về mặt ý nghĩa thì cán cân đó song hành với nhau, hay nói cách khác nhờ đó mà ơn cứu độ của Thiên Chúa tuồn tràn trên con người. Sự xuất hiện của A-đam trong chương 2 sách Sáng thế, cho ta thấy có hai câu chuyện về nguồn gốc con người: “Thiên Chúa lấy bùn từ đất nặn ra con người”(St 2,7). Thiên Chúa lấy nguyên liệu mà Người đã làm nên trước khi nặn ra con người. Các thụ tạo khác thì được tạo dựng cách trực tiếp. Điều đó nói lên, con người chỉ là một phần trong thế giới thụ tạo. Một cách nào đó cũng cho ta thấy, con người lệ thuộc vào thế giới thụ tạo vì: từ đất mà có, mặt khác con người cũng thấy độc lập với thế giới thụ tạo. Cái sau cùng lại trở nên cái cao quý nhất, Thiên Chúa đặt con người làm chủ công trình sáng tạo, trong sự phụ thuộc vào Thiên Chúa. Ngài nói: “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa bảo: Các ngươi không được ăn, cũng không được đụng tới, kẻo phải chết.” (St 3, 2-3). Nhưng con người đã mắc lừa khi nghe những lời sủi giục của con rắn và con người tự cho mình có quyền trên Đầng Sáng Tạo, để rồi hái trái cây ấy mà ăn. Từ đây, con người đã đánh vỡ sự thánh thiện ban đầu, đánh mất sự hòa hợp giữa con người với muôn vật. Từ đó, tội lỗi xâm nhập vào con người ngày một mãnh liệt như tiền tài, địa vị, dục vọng. Nhưng không vì thế mà Thiên Chúa bỏ rơi con người, kệ cho thú giữ hành hạ, nhưng Người vẫn yêu thương con người, đưa con người trở về với tình yêu ban đầu. Yêu đến nỗi Người đã ban chính con một yêu dấu để cứu độ chúng ta và Người đã biểu lộ tình yêu bằng cái chết trên cây Thập Gía “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Trong 11 chương đầu của sách Sáng thế, cho ta thấy nhiều sự kiện quan trọng diễn ra trong chương này. Qua đọc và tìm hiểu 11 chương đầu của sách Sáng thế, tôi nhận thấy có 2 mục trọng yếu đó là:
1/ Từ (St,1-2) nói lên tình yêu nhưng không của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Mọi việc Thiên Chúa khởi sự thật tốt đẹp, thánh thiện, nhân loại được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa như Cha ở trong con và con ở trong Cha.
2/ Từ (St,3-11) nói lên sự sa ngã của con người, dẫn đến nhiều mối tai họa giáng xuống trên con người. Sự tội đã làm cho khoảng cách giữa con người với Thiên Chúa không còn được gặp nhau trực tiếp như trước nữa, mà là một sự gián tiếp qua các tạo vật. Mấu chốt khởi đầu cho sự sa ngã nằm toàn bộ trong (St, 3) là khoảng cách giữa thiện và ác. (St, 3) mô tả việc tội lỗi xâm nhập vào con người và các thảm họa gây ra cho muôn loại trong vũ trụ.
          Con người rơi vào sự sa ngã bắt đầu “Trong vườn Ê- đen lại xuất hiện con vật mới lạ đó là con rắn, cũng là một thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên, nhưng con vật này không những có trí khôn, hiểu biết điều Thiên Chúa truyền mà còn xảo quyệt nữa. Nó lý luận và đối đáp rất sát với tâm lý con người để lừa đảo người đàn bà bằng cách bôi nhọ Thiên Chúa” [1]. Chính con vật này đã làm cho khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người không còn trực tiếp gặp nhau trong sự thánh thiện ban đầu. Từ đây, tội lỗi đã xâm nhập vào nhân loại cách trắng trợn và để lại hậu quả muôn đời cho con cháu.
          Trong quá trình gieo rắc sự tội, con rắn đã đùng phương pháp tiệm tiến dần dần để con người dẽ dàng phạm tội. Khởi đầu con rắn xuất hiện. Nó rất khôn ngoan khi chọn đối tượng là người phụ nữ, vì phái yếu có tâm tính nhạy cảm hơn nên sự thành công của nó sẽ chắc chắn hơn. Nó bắt đầu câu chuyện không bằng một sự súi giục ăn trái cây đó đi bà, nhưng nó bắt đầu gieo trong đầu người phụ nữ những câu hỏi nghi vấn “có thật Thiên Chúa bảo: “Các ngươi không được ăn mọi trái cây trong vườn không ?”” (St 3,1). Dường như nó đảo ngược toàn bộ lời của Thiên Chúa nói với con người là “hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn” (St 2, 16). Khi nghe thấy lời của con rắn nói sai về điều của Thiên Chúa nên E-và đã phản ứng ngay tức khắc, bà đã phản ứng lại lời nói của nó. Vì sự phản ứng tự nhiên nên dường như câu nói ban đầu của Thiên Chúa được đưa lên một đỉnh cao là “trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa bảo: Các ngươi không được ăn, cũng không được đụng tới, kẻo phải chết.” (St 3, 2-3). Qua đó, ta thấy được E-và đã ý thức rõ đến thế nào về tính nghiêm trọng của điều Thiên Chúa cấm kỵ. Khi nghe E-và trả lời, con rắn đã biết được điểm yếu của người phụ nữ là sợ chết. Thói xảo quyệt của nó tránh không thúc giục E-và ăn trái cây đó. Nhưng nó chỉ quả quyết với E-và là “chẳng chết chóc gì đâu” (St 3, 4). Nó đã gieo vào trong suy nghĩ của người đàn bà không có một hình phạt nào như thế. “Lời răn đe lành mạnh của Thiên Chúa, nó biến thành một lời nói dối, đồng thời ngụ ý rằng: Thiên Chúa muốn độc chiếm sự hiểu biết chứ chẳng yêu thương gì con người. Nó tìm cách gợi lên trong người phụ nữ tham vọng biết, nhưng trước tiên phải gieo vào lòng bà sự ngờ vực về sự chân thật và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, đồng thời gây tin tưởng manh mẽ vào sự hiểu biết của chính nó. Một khi con người hoài nghi về ý định yêu thường của Thiên Chúa, thì chuyện gì cũng có thể xẩy ra.” [2]. Sự tinh vi của con rắn đã làm cho E-và dường như chiều theo những lời của nó và trong ánh mắt của bà luôn nhìn vào trái cây đó. Từ ánh mắt đó đã toát lên một sự thèm muốn, thèm muốn được tinh khôn, sự hiểu biết xâu xa, cái thèm muốn hơn cả là muốn bằng Thiên Chúa và Thiên Chúa không có quyền thống trị mình, “Người đàn bà thấy rằng cây đó ăn thì ngon, trông thật sướng mắt, và cây đó đáng thèm vì làm cho mình được tinh khôn” ( St 3, 6). Từ ánh mắt và sự khoái cảm đó đã dần dần đi vào trong ý thức rồi mới xâm nhập ý muốn và đi đến hành động đưa tay bứt trái cây đó, một hành động hoàn toàn tỉnh táo và tự do “Bà liền hái trái cây đó mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình và ông cũng ăn.” ( St 3, 6).
          Qua đó, cho ta thấy con rắn đã cám dỗ con người phạm tội theo chiều hướng đi lên, bắt đầu từ cái nhỏ nhất. Đó chính là gieo vào suy nghĩ của E-và sự nghi vấn, rồi đến sự quả quyết của nó. Từ đó, đưa E-và đến ánh mắt của vinh hoa, sự khôn ngoan, sự thống trị, dần dần ngấm sâu vào trong ý thức, ý muốn rồi đến hành động đưa tay hái trái cây đó mà ăn, rồi đưa cho cả chồng ở đó cùng ăn.
          Nguyên nhân con người sa ngã trước sự dụ dỗ ngon ngọt của con rắn là do lòng tin của E-và quá yếu kém. Chính vì thế, khi trò chuyện với con rắn, E-và đã đâm ra nghi ngờ Thiên Chúa. Bà đã tin lời con rắn hơn tin lời Thiên Chúa và E-và đã hành động theo niềm tin đó. Chắc có lẽ, nhiều người hỏi tại sao khi E-và đối thoại với con rắn và nhất là khi bà đưa trái cây đó cho ông ăn, mà A-đam không có một sự phản ứng nào, cái hậu quả sau khi ông bà ăn Thiên Chúa đã báo trước cho ông ?. Nguyên nhân vì trong ý nghĩ, con người muốn chiếm đoạt quyền của Thiên Chúa, không muốn để cho Thiên Chúa thống trị mình, mình phải ngang bằng với Thiên Chúa, cũng được tinh khôn giống như Người, nên họ đã dùng cách thức này để mong đạt được điều đó, bất kì lệnh của Thiên Chúa đã cấm mà con người biết rõ.
          Sau khi con người ăn xong và mắt hai ông bà mở ra. Có lẽ, hai ông bà rất thất vọng, vì không được tinh khôn, không trở nên như những vị thần biết điều thiện điều ác mà chỉ thấy mình trần truồng. Như có lời nói “Phản bội Thiên Chúa, lương tâm con người bị lột trần trước mặt người” [3]. Từ đó, tính dục nổi loạn, con người tự hổ thẹn với chính mình và với tha nhân “mắt hai ông bà mở ra và họ biết mình trần truồng; họ mới kết lá vả làm khố cho mình” (St 3, 7). Những gì cao quý, tốt đẹp trước đó, giờ đây không còn nữa, mất tình thân hữu với Đấng Tạo Hóa. Con người không nói lời yêu thương, che trở cho nhau như trước “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi. Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì Nàng được rút từ đàn ông ra.” (St 2, 23). Sau khi phạm tội lời này trở thành “Người đàn bà Ngài cho ở với con, chính nàng đã cho con cây ấy, nên con ăn.” (St 3, 12). Chính vì thế đã làm cho tội lỗi, sự đổ lỗi cho nhau, sự giận hờn, ghen ghét đã xâm nhập vào con người, phá vỡ sự tốt đẹp ban đầu là những lời yêu thương.
          Cha ông ta thường nói “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Đó là lời dậy của người xưa khi con cái hư hỏng, không vâng lời cha mẹ, làm điều xấu. Cũng có câu “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà ”. Chính những lời bênh vực con cái khi con cái làm sai đã làm cho cuộc đời của đứa trẻ đó dần dà đi sai đường lạc lỗi, khi lớn lên đứa con đó luôn đi theo ý riêng của mình để rồi những lời cha mẹ dậy bảo nó không còn nghe và hầu như nó bỏ ngoài tai tất cả. Có rất nhiều những lời khuyên dậy cha mẹ không nên làm con cái hứ hỏng. Có lẽ chính hình ảnh Thiên Chúa trừng phạt con người khi con người phạm tội đã để lại những lời khuyên dậy để cha mẹ làm tròn bổn phận là người cha, người mẹ luôn biết dậy con cái. Thiên Chúa không ghét bỏ con người sau khi con người phạm tội. Nhưng Ngài muốn chỉ dậy con người khi con người phạm tội. Những hình phạt đó là do chính con người tự chuốc vào thân mình. Khi Thiên Chúa hỏi con người “ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng ?” (St 3, 11). A-đam tự nhận không xứng đáng xuất hiện trước tôn nhan Chúa như trước nữa. Tuy nhiên, ông chỉ dựa vào sự bất xứng của mình để chữa tội, chứ không tự thú tội, cũng chẳng xin được thứ tha.[4]  Khi bị chất vấn thì con người đổ lỗi cho nhau không nhận trách nhiệm về mình. A-đam đổ lỗi cho Chúa khi Người cho người phụ nữ ở với ông, chính nàng đã cho con trái đó. E-và đổ lỗi cho con rắn. Không ai nhận trách nhiệm, lỗi lầm về mình và xin Người ơn tha thứ. Sở dĩ con người ra như thế vì sự tốt đẹp ban đầu không con nữa mà lúc này chỉ toàn là những sự dữ, khiến con người ra u tối, không còn nhận ra chính mình nữa. Sự trừng phạt của Thiên Chúa đi từ dưới lên, bắt đầu từ con rắn, người phụ nữ, ông A-đam, đất đai sẽ nguyền rủa con người, đuổi ra khỏi vườn Ê-đen và cuối cùng là sự phân cách giữa con người với Thiên Chúa bằng các Kê-ru-bim và gươm lửa sáng lóe.
          Thiên Chúa trừng phạt con rắn là loài đáng bị nguyền rủa nhất trong tất cả mọi súc vật và mọi dã thú, phải ăn bùn đất mọi ngày trong đời. Qua đây, Thiên Chúa cũng hứa ban ơn cứu độ xuống cho con người, khi Ngài nói “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người ấy; dòng giống đó sẽ đáng vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Câu nói này loan báo một mối thù truyền kiếp và một cuộc chiến một mất một còn, giữa hai bên con rắn và người phụ nữ, thế nhưng sẽ không phải là cuộc chiến trường kì, bất phân thắng bại, mà nó sẽ kết thúc có lợi cho con người. Ma quỷ sẽ bị đánh bại bởi chính dòng dõi người phụ nữ và như thế nhân loại sẽ được phục hồi trước Thiên Chúa. Qua đó, cũng ngụ ý rằng chính con một Người xuống ngự vào trong cung lòng người phụ nữ và người này sẽ đem lại chiến thắng ấy cho con người. Điều này được sáng tỏ hơn khi Thiên Chúa trừng phạt người phụ nữ.
          Khi Thiên Chúa trừng phạt con người, Người không nguyền rủa cách trực tiếp mà Người chỉ có khiển trách và ra hình phạt. Thiên Chúa phạt người phụ nữ “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ muốn chồng ngươi; còn nó, nó sẽ thống trị ngươi” (St 3, 16). Qua đó, cho ta thấy Thiên Chúa trừng phạt người phụ nữ trong vai trò làm mẹ và làm vợ. Bà sẽ phải đau đớn trong lúc mang thai và khi sinh đẻ. Thiên Chúa dùng hình ảnh lúc lâm bồn để nói lên sự đau khổ nhất của người phụ nữ.
          Đối với A- đam, Người cũng trừng phạt bởi một hình ảnh người lao động, phải lao động  cực nhọc thì mới có bánh ăn, khi người nói “đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mới kiếm được miếng ăn từ đất, mọi ngày trong đời ngươi. Đất đai sẽ trổ sinh cho ngươi gai góc và cây có gai, ngươi sẽ ăn ở ngoài đồng. Mặt có đẫm mồ hôi mới có bánh ăn, cho đến khi ngươi trở về với đất, vì từ đó ngươi đã được lấy ra. Qủa thật, ngươi là bụi đất, và ngươi sẽ trở về với bụi đất” (St 3, 17-19). Từ đây, A-đam “nhận thấy” sự khó nhọc của lao động. Không phải bản chất của lao động thay đổi, nhưng là cái nhìn của A-đam về lao động thay đổi. Con người phải lao động cực nhọc để nuôi sống bản thân và người khác, đất đai cũng nguyền rủa con người vì tội lỗi của con người, khiến cho con người phải cực nhọc thì đất đai mới sinh hoa quả để con người được sống trên mặt đất. Cái làm cho con người đau khổ nhất là cái chết nơi con người, từ cái chết này con người sẽ trở về với nguyên thủy ban đầu của mình là được sinh ra từ bụi đất. Trong mỗi người, chắc ai cũng sẽ rất nhớ lời bài hát “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, rồi mai ngày sẽ trở về bụi tro”. Chính tội lội đã mang lại cho con người những đau khổ và đau khổ lớn nhất nơi con người đó là cái chết, nhưng đó là cái chết để ta được trở về với Thiên Chúa là nguồn mạch của sự sống. Con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa mà không phải chết nếu như con người không phải là con của Thiên Chúa.[5]
          Thiên Chúa không thể để cho hai ông bà tiếp tục hưởng những hồng ân như trước nữa. Sau khi trừng phạt, Thiên Chúa đã đuổi ông bà ra khỏi vườn Ê-đen “Nay con người đã trở thành như một trong chúng ta, để biết được điều thiện và điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả cây trường sinh mà ăn và được sống mãi” (St 3, 22). Câu nói này ngụ ý sâu xa rằng: con người vĩnh viễn mất ơn bất tử Thiên Chúa đã ban. Từ một nơi tốt đẹp và thánh thiện giờ đây không còn nữa, khoảng cách ấy dường như xa thật xa và sẽ không bao giờ đến được nơi đó nữa, khoảng cách ấy ngăn cách bởi những “Kê- Ru- bim và gươm lửa sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trường sinh” (St 3, 24). Ngài vẫn yêu con người, chỉ có Thiên Chúa mới có thể khôi phục lại địa vị cho con người bằng cách đem lại cho con người căn tính thánh thiện ban đầu. Qua đó, nói lên Ơn Cứu Độ chỉ có thể bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng sẽ ban chính con một yêu dấu của Người đến với nhân loại. “Ai không ăn thịt và không uống máu của Ta thì không có sự sống đời đời” (Ga 6, 53). Như vậy, trong Thiên Chúa con người cần phải tìm lại căn tính của mình đã tự đánh mất bởi vì tội nguyên tổ.
          Qua trình thuật ( St, 3) tôi nhận thấy, chính những ước vọng hão huyền đã làm cho con người đến những cùng cực nhất của xã hội. Nó làm cho con người ra ô uế, làm cho khoảng cách giữa con người và Thiên Chúa mỗi ngày một xa dần. Chính những mơ tưởng đã làm cho con người đâm ra hận thù, ghen gét lẫn nhau và không tin tưởng nhau. Xã hội ngày hôm nay dường như đã mất ý thức hệ về tội, làm cho con người càng ngày càng đi sâu vào con đường tội lỗi. Coi mạng sống không là gì cả, như là một thứ đồ vật không thích thì bỏ đi. Một xã hội coi Thần Thánh như không có, từ đó coi việc tình đục như là một trò chơi nhằm thỏa mãn những khoải cảm con người, coi việc phá thai là chuyện bình thường, không nuôi được thì phá để lấy lại sự tính tiết cho chính mình, không nghĩ đến đứa con nó đang còn rất muốn sống và muốn được nhìn thấy mặt người mẹ.  Nhưng chính người mẹ lại can tâm giết đứa con của mình ngay khi nó chưa có tiếng nói là “mẹ ơi con muốn được sống”. Ma quỷ vẫn cám dỗ ta như cám dỗ ông bà xưa, chính những lúc ta chiều theo những suy nghĩ gây ra những dịp tội là những lúc ta đang nói chuyện với ma quỷ. Ma quỷ không hiện ra để cám dỗ ta cách trực tiếp những nó dung chính những cái trong con người ta để làm ta trở nên sấu xa, nếu ta không tỉnh thức thì cũng dễ rơi vào tình trạng nói chuyện với mà quỷ rồi dần dần nó chiếm đoạt những suy nghĩ của ta và ta đâm ra nghi ngờ về Đấng ta hằng tin tưởng, để rồi làm theo những chỉ dẫn trong suy nghĩ của ta mà chính ma quỷ đang sủi giục ta làm.
                                                                                  Anton  Công Chính

[1] Lm Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao, Tìm Hiểu Ngũ Thư, Tài liệu dậy học, Tr 72.
[2] Lm Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao, Tìm Hiểu Ngũ Thư, Tài liệu dậy học, Tr 73.
[3] Lm Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao, Tìm Hiểu Ngũ Thư, Tài liệu dậy học, Tr 74.
[4]Lm Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao, Tìm Hiểu Ngũ Thư, Tài liệu dậy học, Tr 76.
[5] 100 Nhân Vật Tiêu Biểu Kinh Thánh. Người dịch: Maria Phạm Bích Giang, O.A và Lm. Phêrô Trần Văn Huyền, A.A.

Thứ Tư, 20 tháng 2, 2013

ĐỨC TIN TÌM THẤY TRONG NGHỆ THUẬT THÁNH

Bạn thân mến
          Để mở đầu cho đề tài này, tôi xin mượn những lời được viết trong Công đồng Vaticanô II số 122, về hiến chế phụng vụ thánh “Trong những nghệ thuật cao quý nhất của tài trí con người, đặc biệt phải kể đến mỹ thuật, nhất là nghệ thuật tôn giáo và tột đỉnh chính là nghệ thuật thánh. Tự bản tính, nghệ thuật Thánh nhằm diễn tả cách nào đó về vẻ đẹp vô biên của Thiên Chúa qua những tác phẩm nhân loại. Nghệ thuật này càng làm cho Thiên Chúa được ca tụng và tôn vinh hơn, một khi những tác phẩm đó không nhằm chủ đích gì khác ngoài sự tích cực, góp phần hướng tâm trí con người về cùng Chúa cách đạo đức” [1]. Qua những tác phẩm nghệ thuật, ta tìm thấy được vẻ đẹp của Thiên Chúa, tìm thấy được giá trị cao quý mà con người đang thừa hưởng. Để có được những tác phẩm này, các nghệ nhân, họa sĩ, thi sĩ, đã dày công tìm hiểu, chắt chiu những ý tưởng, những khát vọng cháy bỏng, để rồi họ thổi vào trong những tác phẩm đó một sức sống, sức mạnh, để từng đường nét đi trên tác phẩm là thể hiện cả con người và tâm hồn họ. Con người được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh của Người. Qua con người Thiên Chúa đặt để con người trông coi mọi thụ tạo Ngài dựng nên “Được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người cũng diễn tả chân lý về tương quan của mình với Thiên Chúa Sáng Tạo bằng vẻ đẹp của các tác phẩm nghệ thuật của mình. Thật vậy, nghệ thuật là một hình thức diễn tả chỉ riêng con người mới có; vượt lên trên việc cố gắng thỏa mãn những nhu cầu sinh hồn, là điều chung của mọi sinh vật, nghệ thuật là sự đầy tràn chan chứa, được ban tặng cách nhưng không, sự giàu sang nội tâm của con người. Xuất phát từ tài năng do Đấng Tạo Hóa ban, và từ nỗ lực của chính con người, nghệ thuật là một hình thức của sự khôn ngoan thực tiễn, kết hợp kiến thức với tài khéo léo, để tạo hình thể cho chân lý của mọi thực tại, bằng thứ ngôn ngữ có thể cảm nhận bằng mắt và bằng tai nghe.” [2]. Con người không thể dùng những ngôn ngữ bình dân để mô tả hết giá trị của các tác phẩm mà những người nghệ thuật đã làm ra. Đức Thánh Cha Bê – nê – đit – tô XVI đã nói sau khi Ngài xem bộ phim tài liệu mang tên “Nghệ Thuật và Đức Tin – Con Đường Của Cái Đẹp”. Bộ phim này đánh dấu kỉ niệm 500 năm hoàn tất các bức họa trên trần nhà nguyện Sistine. Bộ phim được trình chiếu tại Hội Trường Phaolô VI. Ngài đã nói rất nhiều nhưng tôi xin được trích một câu ngắn trong bài phát biểu của Ngài “Ngôn ngữ của nghệ thuật là ngôn ngữ của các dụ ngôn, có thể mở ra với vũ trụ. Con đường của cái đẹp hướng tâm trí con người đến với vĩnh cửu, nâng cao con người lên với Thiên Chúa” [3]. Qua đó, cho ta thấy được khi được chiêm ngắm những nét đẹp nơi các tác phẩm ta phải có một cái nhìn của niềm tin và một nét đẹp cao vời mà tâm hồn con người đang tìm kiếm và là nơi hạnh phúc nhất của con người.
          Có rất nhiều ngôn từ để nói về con người nghệ thuật. Trong đề tài này tôi xin được trình bày với quý vị lĩnh vực “ Nghệ Thuật Tạo Hình” lĩnh vực này sẽ được quy tụ trong lĩnh vực của Nghệ Thuật Thánh. Qua đó, ta thấy được Đức tin của ta được củng cố và đưa ta đến với Thiên Chúa là nguồn mạch của sự bình an, hạnh phúc và nhất là nguồn mạch của những vẻ đẹp.
I/ Khái Niệm Nghệ Thuật
          Từ “ Nghệ Thuật ” theo nguyên ngữ la tinh ( ars) vừa diễn tả một khả năng sáng tạo của con người, vừa được dùng để chỉ những kết quả do khả năng ấy tạo ra [4]. Nghệ thuật là những tinh hoa mà người nghệ sĩ đã thu thập để rồi trình bày những nét đẹp đó vào tác phẩm của mình. Qua nghệ thuật con người góp phần cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa. “Khi chuyên tâm học hỏi các bộ môn triết học, sử học, toán học, vạn vật học và trau dồi nghệ thuật, con người có thể góp phần lớn lao vào công cuộc thăng tiến gia đình nhân loại, để đạt tới những giá trị cao cả của Chân, Thiện, Mỹ và một phán đoán có giá trị phổ quát” [5]. Ngoài những môn học tự nhiên, con người cần trao dồi nghệ thuật. Con người sau khi phạm tội đã đánh mất ơn nghĩa với Thiên Chúa. Không còn được nhìn thấy Ngài cách trực tiếp như trước nữa, nhưng mà qua một trung gian nào đó để đưa ta đến gặp gỡ Thiên Chúa. Nơi Thiên Chúa có đầy đủ về Chân, Thiện, Mỹ  “Niềm vui tinh thần và vẻ đẹp luân lý, đi đôi với việc thực thi điều thiện. Cũng vậy, chân lý mang lại niềm vui và ánh huy hoàng của vẻ đẹp tinh thần. Chân lý tự do là đẹp” [6]. Là tội nhân nên ta không nhìn cách trực tiếp vẻ đẹp nơi Thiên Chúa. Chúa Giê – su  khi tỏ mình ra cho ông Mô – sê trên núi, Ngài cũng không cho Mô – sê nhìn trức tiếp vẻ đẹp của Ngài “Người phán: ngươi không thể  xem thấy tôn nhan Ta. Vì con người không thể thấy Ta mà vẫn sống” (Xh 33, 20). Vì thế, Con người không thể nhìn thấy cách trực tiếp vể đẹp tôn nhan Ngài nhưng qua nghệ thuật ta có thể nhận ra vẻ đẹp của Thiên Chúa. “Vì các thụ tạo càng lớn lao đẹp đẽ, thì càng giúp nhận ra Đấng Tạo Hóa” (Kn 13, 5), “Vì chính Đấng Tạo Hóa mọi loài là tác giả của muôn vẻ đẹp” (Kn 13, 3). Trong sứ điệp gửi toàn thể nhân loại nhân dịp bế mạc Công đồng Vaticanô II, các nghị phụ đã khắng định “Thế giới ngày hôm nay đang cần đến cái đẹp để khỏi chìm đắm vào thất vọng. Cái đẹp cũng như sự thật mang lại niềm vui cho tâm hồn con người, đó chính là những hoa trái quý giá không tàn úa vì thời gian nhưng nối kết các thế hệ lại và làm cho họ thông cảm cho nhau, khi thán phục nhau.” [7]. Nghệ thuật nối kết cái đẹp từ một không gian rộng lớn bao la hùng vĩ vào một khung hình nhỏ nhưng chất chứa biết bao nét đẹp trong đó. Nơi đây ta nhận ra giá trị thiêng liêng và hướng tâm hồn ta đến với một vẻ đẹp muôn màu nơi Thiên Chúa. Con người nghệ sĩ là cánh tay nối dài của Thiên Chúa, để cho hình ảnh của Ngài được lan rộng. Trong thư Đức Thánh Cha Phaolo II gửi các nghệ sĩ, Ngài nói “Thiên Chúa cho con người hiện hữu, giao cho con người nhiệm vụ của những nghệ sĩ, Chính qua hoạt động sáng tạo nghệ thuật ấy mà hơn bao giờ hết con người cho thấy mình giống Thiên Chúa. Con người hoàn thánh nhiệm vụ này, xuất sắc nhất là khi uốn nắn chất thể kì diệu hay nhân tính của mình và khi thi hành quyền làm chủ một cách sáng tạo trên thế giới chung quanh. Với ánh mắt yêu thương nhà nghệ sĩ thần linh đã chuyển giao cho con người nghệ sĩ nhân loại một trí óc khôn ngoan siêu phàm của mình, cho người này chia sẻ quyền sáng tạo của mình.” [8]
II/ Nghệ Thuật Tạo Hình
          Nói đến nghệ thuật tạo hình là nói đến các nhà kiến trúc sư, điêu khắc, hội họa và vẽ. Nhóm người này đã cho ta thấy được vẻ đẹp của các công trình nghệ thuật, làm thỏa mãn thị giác qua những hình thể màu sắc. Thánh Tô – ma đã viết “Đẹp là cái gì làm ta thích thú sau khi đã lĩnh hội”. Nghệ thuật tạo hình không những giúp ta thỏa mãn về thị giác nhưng còn củng cố đức tin cho những tâm hồn nguội lạnh. Các Tông đồ khi xưa theo Chúa nhưng trong tâm hồn vẫn cảm thấy trống vắng, nhiều lẫn Chúa đã củng cố đức tin cho các ông bằng lời nói nhưng các ông cũng chưa cảm thấy thỏa mãn. Niềm hạnh phúc lớn nhất mà ba môn đệ: Phê – rô, Gia – cô – bê và Gio – an   được Chúa thương cho các ông được thấy dung nhan Ngài. Khi được thấy hình ảnh của Chúa, Phê – rô đã thưa với Đức Giê – su rằng: “ Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay. Nếu Ngài muốn, con xin được dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Mô – sê và một cho ông Ê – li – a” (Mt 17, 4). Khi các ông nhìn thấy hình ảnh của Chúa, niềm tin của các ông tràn ngập để rồi thốt lên niềm hạnh phúc, muốn ở lại, để rồi Phê – rô không cần đến chỗ ở của mình mà chỉ cần làm cho các Ngài những cái lều để ở, con cái lều của mình lúc này là niềm hạnh phúc ở ba cái lều.
          Bằng con mắt thế gian ta không thể trực tri thấy được hình ảnh của Thiên Chúa, vì Ngài là Đấng vô hình. Chỉ có con mắt đức tin ta mới thấy được Ngài đang hiện diện giữa chúng ta và trong chúng ta. Ta không thấy Ngài hiện diện nên ta cần đến ảnh tượng. Ảnh tượng là nơi gặp gỡ giữa cái hữu hạn và cái vô hạn, giữa nhân loại và màu nhiệm Thần Linh. “Vẻ đẹp và màu sắc của các ảnh tượng kích thích việc cầu nguyện của tôi. Đó là một bữa tiệc làm no thỏa mắt tôi, cũng như cảnh đồng quê kích thích trái tim tôi ca tụng Thiên Chúa” [9]. Sự chia trí trong giờ cầu nguyện của con người, làm cho hình ảnh của Thiên Chúa không còn hiện diện trong tâm trí nữa. Lúc đó khi nhìn lên ảnh tượng thì những sự chia trí kia bị gạt bỏ để nhường lại cho sự tốt đẹp nơi Thiên Chúa ngự trị. Có nhiều lúc đức tin của tôi bị xáo trộn nhưng khi được chiêm ngưỡng ảnh tượng trong nhà nguyện tôi cảm thấy được an ủi, vỗ về. Bởi vì trong đó toát lên hình ảnh Thiên Chúa tràn ngập yêu thương, là người đang nhìn tôi với ánh mắt yêu thương, như người mẹ ấp ủ con thơ trong cánh tay Ngài. Ảnh tượng là con đường đẫn ta đến với Thiên Chúa. Ảnh tượng cũng giống như một bà cụ, nếu không có chiếc gậy thì khó có thể đi được, nhờ cây gậy hỗ trợ để rồi những bước chân của bà cụ bước đi.
Trong Công đồng Vaticanô II, số 122 nói về giá trị của nghệ thuật Thánh, “Giáo hội Mẹ cao sang, luôn luôn là bạn của mỹ thuật và không ngừng tìm đến sứ mạng cao quý của mỹ thuật, nhất là những vật dụng dùng trong phụng vụ thánh được thực sự xứng đáng, thích hợp và mỹ lệ, đồng thời biểu thị và tượng trưng những thực tại trên trời” [10]. Chính vì những giá trị cao quý và mang lại niềm tin cho những người tin hữu qua ảnh tượng, nên Giáo hội căn dặn “Các Đức Giám Mục hãy cẩn thận lo loại trừ khỏi Thánh Đường cũng như những nơi thánh khác những tác phẩm nghệ thuật nào nghịch với đức tin và phong hóa, nghịch với lòng đạo đức Kito giáo, cũng như những tác phẩm làm tổn thương ý nghĩa tôn giáo đích thực hoặc vì hình thức tồi bại, hoặc thiếu nghệ thuật, tầm thường và giả tạo” [11]. Không vì thế mà Giáo hội bỏ việc đặt các ảnh tượng trong những nơi thờ phượng mà “phải kiên quyết duy trì thói quen đặt ảnh tượng thánh trong các Thánh Đường cho các tín hữu tôn kính” [12]. Giáo hội cũng nói rõ, các ảnh tượng tôn kính đều quy về Đức Ki – tô là nguồn mạch của ơn cứu độ, nguồn mạch của sự sống. Chính Ngài đã nói “ An hem hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn an hem sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng, vì ách của tôi thì êm ái và gánh của tôi thì nhẹ nhàng ” (Mt 11, 29-30). “Tất cả các dấu chỉ của việc cư hành phụng vụ đều quy hướng về Đức Ki – tô: Kể cả các ảnh tượng của Mẹ Thiên Chúa và của các thánh. Thật vậy, các ảnh tượng này nói về Đức Ki – tô, Đấng được tôn vinh nơi các Ngài. Các ảnh tượng này cho thấy “ ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh” (Dt 12, 1), các Ngài đang tiếp tục tham dự vào công trình cứu độ trần gian và chúng ta được lien kết với các ngài, nhất là khi cử hành các bí tích. Qua ảnh tượng của các ngài, đều được mạc khải cho đức tin của chúng ta. Con người được tạo dựng “theo hình ảnh Thiên Chúa”, cuối cùng được biến hình nên “giống như Thiên Chúa”, và cả các Thiên thần, là những vị đã được quy tụ lại trong Đức Ki – tô: Theo chính giáo huấn của các Thánh Giáo phụ được Thiên Chúa linh hứng, và theo truyền thống của Hội Thánh Công giáo (mà chúng ta biết rằng đó là truyền thống của Chúa Thánh Thần, Đấng chắc chắn đang ngự trong Hội Thánh ), chúng tôi ấn định với tất cả sự chắc chắn và chính đáng rằng, cũng như hình tượng cây Thánh Gía  quý trọng và ban sự sống, các ảnh tượng đáng kính và thánh thiện, hoặc được vẽ và lắp ghép, hoặc bằng những chất liệu thích hợp khác, phải được đặt trong các thánh đường của Thiên Chúa, trên các bình thánh và y phục thánh, trên các bức tượng và các bức họa, trong nhà và trên các đường phố: đó là ảnh tượng của Chúa Giê – su Ki – tô, là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta, cũng như ảnh tượng của Đức Bà tinh tuyền, là Mẹ thánh của Thiên Chúa, ảnh tượng các Thiên thần đáng kính, của tất cả các Thánh và những người công chính” [13]. Mỗi người trong chúng ta đang sống trong xã hội đầy biến động. Chủ nghĩa vô thần, chủ nghĩa duy thực, chủ nghĩa tương đối, chủ nghĩa ca nhân, chủ nghĩa thực dụng. Qua đó cũng làm cho đức tin của người Ki-tô hữu cách nào đó cũng bị ảnh hưởng. Không vì thế mà Tin mừng Chúa không được truyền đạt đến mọi nơi. “Nghệ thuật ảnh tượng Ki-tô giáo dùng hình ảnh để truyền đạt sư điệp Tin mừng, sứ điệp mà Sách Thánh lưu truyền bằng lời. Hình ảnh và lời nói làm sáng tỏ lẫn nhau”[14] 
III/ Kết Luận
 Chúa Giê – su khi mời gọi các môn đệ, Người muốn các ông từ bỏ tất cả để đi theo Người với cả trí khôn và tâm hồn. Giáo hội ngày nay cũng mời gọi các nghệ sĩ hãy đem hết sự khôn ngoan, tâm trí, tâm hồn con người nghệ thuật mà Chúa đã ban, để tạo nên những tác phẩm của nghệ thuật thánh, để truyền vào đó vẻ đẹp của Thần linh, mang lại hơi ấm niềm tin nơi người Ki tô hữu. Đức Thánh Cha Bê – nê – đit – tô XVI, trong sứ điệp gửi các tham dự viên khóa họp thường niên lần thứ 17 của Hàn Lâm Viện Tòa Thánh, nhóm họp chiều ngày 21/04/2012 tại Rô – ma, Ngài đã bày tỏ “Nghệ sĩ như Giáo hội, chứng nhân về vẻ đẹp của Đức tin”. Ngài nhận xét: “vẻ đẹp đức tin không bao giờ có thể là một chướng ngại cản trở sự sáng tạo mỹ thuật, vì có thể nói đức tin là nhựa sống và là chân trời tối hậu của sáng tạo nghệ thuật” [15]. Nghệ thuật là cánh tay nối dài trong công cuộc rao truyền Tin mừng cách hữu hiệu, mang lại cho người Kitô hữu nhìn thấu xuất ơn cứu độ của Thiên Chúa. “Nghệ Thuật Tạo Hình” như là bức thông điệp nhắn nhủ người tín hữu hãy cậy dựa vào Chúa bất cứ lúc nào, cậy đựa vào Chúa không chỉ bằng con mắt, tâm trí mà qua nghệ thuật thấu xuất trong trái tim mỗi người. “Nghệ thuật đã giúp Giáo hội diễn tả sứ điệp thánh của mình ra ngôn ngữ hình thể và sắc thái, khiến cho thế giới vô hình có thể được cảm nhận”[16]
                                                                                      Anton Nguyễn Văn Chính
Tài liệu tham khảo

1.     Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước, Nhà xuất tôn giáo TPHCM, Bản Dịch của Nhóm cá giờ kinh phụng vụ.
2.     Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công giáo của Hội Đồng Giám Mục Việt nam Uỷ Ban Giáo Lý Đức Tin. Nhà xuất bản Hà Nội 2011. Tái bản lần thứ nhất. Hiệu đính bản dịch: Giám MỤC Phaolô Bùi Văn Đọc và Linh mục Giuse Bùi Văn Hoàng.
3.     Công đồng Va-ti-ca-nô II, Phân khoa thần học Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X.
4.     Con người suy tư về giá trị sinh hoạt của mình, triết III Dự Bị Thần Học. Soạn giả: Gioan Nguyễn Hiến Minh.
5.      http://hdgmvietnam.org/ Văn hóa – nghệ thuật. Một cái nhìn về nghệ thuật của Giám mục Matthêô Nguyễn Văn Khôi.
6.     https://sites.google.com/site/trangtintucconggiao/homedaichanly.


[1] Côn đồng Vaticano II, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh, Số 122.
[2] Xem Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, Số 2501.
[3] Web: Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Một cái nhìn về Nghệ Thuật. Gm Matthêô Nguyễn Văn Khôi.
[4] Web: Hội Đồng Giams Mục Việt Nam. Một cái nhìn về Nghệ Thuật. Gm Matthêô Nguyễn Văn Khôi.
[5] Côn đồng Vaticano II, Hiến chế mục vụ về giáo Hội trong thế giới ngày hôn nay. Số 57.
[6] Xem Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, Số 2500.
[7] Côn đồng Vaticano II, Gửi giới văn nghệ sĩ, Số 18.
[8] Trong thư của Đức Thánh Cha Gioan phaolo II, gửi các nghệ sĩ. (04/04/1999), Số 1.
[9] Xem Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, Số 1162.
[10] Côn đồng Vaticano II, Gía trị nghệ thuật thánh, Số 122.
[11] Côn đồng Vaticano II, Gía trị nghệ thuật thánh, Số 124.
[12] Côn đồng Vaticano II, Gía trị nghệ thuật thánh, Số 125.
[13] Xem Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, Số 1161.
[14] Xem Sách Giáo lý của Hội Thánh công giáo, Số 1160.
[15] Web: Tin tức Công giáo, Đài chân lý á châu. G. Trần Đức Anh, OP.
[16] Côn đồng Vaticano II, trong sứ điệp gửi toàn thể nhân loại , nhân ngày bế mạc, Số 17.