Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016

DỤ NGÔN NGƯỜI CHA NHÂN HẬU

Anton Nguyễn Văn Chính
Bản văn (Lc 15,11-32)

Không những trong xã hội ngày nay, mà ngay từ thời xa xưa nhất vấn đề về con người, đời sống xã hội, đời sống con cái, đời sống vợ chồng…. luôn là chủ đề nóng bỏng. Ta cảm thấy xã hội càng phát triển bao nhiêu thì vấn đề con người sống với các mối tương quan càng đi xuống bấy nhiêu. Coi mạng sống con người không là gì cả, thích thì cho sống không thích thì giết. Con người càng ngày, càng mất cảm tính về tội, luôn chạy theo những gì là hiện tại, một khi đã quyết tâm thì tìm mọi cách để chiếm lấy, kể cả lấy mạng sống mà đạt được mục đích.
Qủa thực, tôn giáo vẫn luôn là điểm then chốt để giáo dục con người, là điểm quy chiếu để mỗi con người tự nhìn nhận mình.
Qua đoạn Tin mừng (Lc 15,11-32) cho ta thấy hình ảnh của người cha đối với hai người con và thái độ của hai anh em với nhau. Đây cũng là mối bận tâm của mỗi gia đình ngày hôm nay. Qua thực, sinh con ra thì dễ nhưng giáo dục con cái nên người mới là điều khó. Với trào lưu đua dòi thì rất dễ làm cho con cái mình ra hư hỏng. Học cái tốt đẹp từ cha mẹ dậy bảo thì khó những học những cái xấu nơi bạn bè thì rất nhanh. Tất cả dường như ngoài vòng kiểm soát của cha mẹ.
Qua dụ ngôn này, cho thấy hình ảnh người Cha chính là Thiên Chúa và hình ảnh hai người con chính là hình ảnh của con người trong một gia đình Thiên Chúa.
I/ Chủ giải
1/ Hình ảnh người Cha:
        Khi người con út xin người cha được chia phần gia tài anh sẽ được hưởng sau này “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng” (x. Lc 15,12). Có người cha nào không đau lòng khi nghe thấy những lời này, thậm chí con chửi bới người con này nhưng người cha trong đoạn Tin mừng này không một lời than trách nào đối với người con út này. Có lẽ, người cha không nói ra bằng lời nhưng trong lòng phải chẳng rất đau lòng vì có một người con như thế. Dường như nước mắt và lời nói đã chảy ngược vào trong lòng người cha này nên không thể nói ra ngoài được. Hơn thế nữa, người cha tôn trọng quyền tự do của người con thứ này, vì nó đã đủ khôn lớn để sống tự lập và dự tính cho tương lai của mình nên người cha sẵn sàng chia phần gia tài cho người con út, đồng thời một cách nào đó cũng chia luôn phần gia tài cho người con cả vì gia đình chỉ có hai người con. Sau khi được chia, người cha vẫn tôn trọng quyền tự do của người con này, để anh lấy số tiền đó đi để thực hiện dự tính cho tương lai của mình.
        Không có người cha nào, khi người con mình đi xa mà không có sự lo lắng, dù đó là người con khốn nạn và tồi tệ nhất. Qua nhiên, người cha trong Tin mừng luôn luôn trông ngóng tin tức của người con thứ này, xem ở nơi đất khách quê người nó làm ăn như thế nào, mọi người có đối xứ tốt với nó không…. Trong từng giây, từng phút của một ngày, người Cha già luôn nhìn ra đầu ngỏ nơi anh đã đi, xem người con này có trở về hay không “Anh đang ở đàng xa, thì người cha đã trông thấy” (x. Lc 15,20). Người ta thường bảo “xa nhau thì nhớ, gần nhau thì chẳng nói lên lời”, Qủa thật, đây là một nỗi nhớ xuất phát từ con tim, một nỗi nhớ không thể nào diễn tả nổi. Chỉ có lấy tình yêu mà đáp trả lại mà thôi.
        Trong suy nghĩ của người cha, chắc chắn không sớm thì muộn người con này cũng trở về, một là thành công hai là thất bại. Nếu là thành công thì cũng mừng cho nó vì nó đã trưởng thành. Nếu thất bại thì cũng mừng cho nó vì nó nhận ra được đâu là giá trị của cuộc sống, đâu là nỗi khổ của người sống xa gia đình. Nên người cha đã chuổn bị những gì là tốt nhất cho anh sau khi anh trở về, nào là “cái hôn, áo, nhẫn, dép, bê đã vỗ béo” (x. Lc 15,19-24), đó là tất cả những thứ tốt nhất của một niềm vui, của tiệc mừng và một sự trở về đầy yêu thương.
        Qủa thật, để cho một gia đình êm ấm và công bằng không phải là chuyện dễ. Chính người cha này, đã ra tận đầu ngõ để năn nỉ người con cả vào chung vui với gia đình. Một sự khiêm nhường đến tận cùng nhất, để cho gia đình hoàn toàn có sự yêu thương. Qua hình ảnh này ta thấy, người cha chấp nhận vừa là người Cha vừa là người mẹ trong gia đình, để lấy sự quân bình nhất. Đây là hình ảnh “gà trống nuôi con”. Ông đã chấp nhận mất tất cả để dành lấy được hạnh phúc cho gia đình khi người cha này nói “tất cả những gì của cha đều là của con” (x, Lc 15,31).
        2/ Hình ảnh người con thứ
        Đây là một người con bất nhân, bất nghĩa. Vì chỉ khi nào trong gia đình người cha người mẹ không còn sống nữa thì những người con mới được hưởng phần gia tài mà cha mẹ đang có. Có chia thì chính người con cả hay một người nào khác đứng ra để chia cho mọi thành viên trong gia đình. Đằng này, khi người cha đang còn sống và người con cả cũng không nói gì mà người con thứ lại ngang ngược đòi chia gia tài “Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng” (x. Lc 15,12).
        Khi đã lấy được tài sản, anh liền cuốn gói đi mà không một lời chào hỏi nào đối với người cha cùng với mọi thành viên trong gia đình. Anh đã lấy tất cả những gì là của anh để ra đi “anh thu gom tất cả rồi trẩy đi phương xa” (x. Lc 15,13). Đến một nơi mà anh hằng ấp ủ trong lòng, một nơi anh có thể rửa tiền tốt nhất, một nơi tội lỗi nhất nếu ai vào đó chắc chắn sẽ khó ra.
        Vâng, quả thực người ta thường nói “đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ, gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng cha”. Sau khi anh ta đã phung phí hết tài sản của mình, thì anh đành phải đi làm công cho một người. Ở nơi đây, người ta đã đối xử rất tệ bạc đối với anh ta. Người đời thường có câu “ác giả thì ác báo”. Điều này đã sẩy ra đối với anh. Chính lúc này, anh mới hồi tưởng lại những ngày ở bên người cha của mình. Anh đã so sánh giữa người làm công ở nhà và hiện trạng anh đang ở đây lúc này cách nhau một trời một vực “biết bao người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa còn ta ở đây lại chết đói” (x. Lc 15,17).
        Qủa thực, con người lúc sướng đâu có biết là mình sướng, để rồi lúc khổ mới nhận ra được mình sướng. Đây cũng là điều, con người không thể tự biết mình, cái biết về mình là nhờ người khác chỉ cho mình, để mình nhận ra mình. Chính những lúc đau khổ là lúc nhận ra mình nhiều nhất. Chính lúc nhìn lại mình là những lúc con người mang đầy thương tích.
        Cuối cùng anh đã quyết định trở về, dù có nhục nhã và không chấp nhận của người cha mình vẫn phải trở về để xin cha tha thứ. Mọi sự dường như anh đã chuổn bị cho chuyến hành trình trở về của mình. Đó là một sự ăn năn sám hối đến tận cùng nhất, chỉ mong cha chấp nhận như người làm công mà thôi, chứ anh không có đòi hơn.
        Nhưng một sự bất ngờ dành cho anh, dường như mọi sự không trong dự định và toán tính của anh. Chính người cha tỏ lộ tình yêu thương với mình trước, đây là một sự tha thứ lớn lao nhất mà anh ta không thể nào ngờ được. Người cha vẫn chấp nhận mình, một đứa con hỗn láo nhất. Anh vẫn nói những dự định của mình nhưng người cha đã không cho anh nói hết “Thưa cha con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa.” (x. Lc 15,21). Đó chính là tình yêu bao la mà Thiên Chúa cũng luôn dành cho mỗi người chúng ta khi ta phạm tội với Ngài mà biết ăn năn hối lỗi.
        3/ Hình ảnh người con cả
Khởi đầu, ta tưởng đây là một người con đạo hiếu, biết vâng lời cha, luôn ở bên và chăm sóc cho cha mọi công việc “Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh cha” (x. Lc 15,29). Không ngờ, đây lại là một người con có tâm lòng hẹp hòi, ích kỉ, chỉ nghĩ đến lợi ích của mình chứ không có nghĩ đến người khác. Chỉ ở với tư cách là người hầu chứ không phải người con trong gia đình.
Xuất tháng, xuất năm anh ta luôn ở bên cha, nhưng thực ra anh ở bên cha chỉ với cái vỏ bên ngoài là thân xác chứ tinh thần và lòng mến yêu anh dành cho cha dường như không có chút nào. Chắc có lẽ hằng ngày anh luôn cầu cho người cha này chết đi để mình chiếm tất cả gia tài còn lại của người cha này hay sao.
Người ta thường bảo “có ở trong chăn mới biết chăn có rận”, Qủa thực, người con cả này, thực sự đã lộ rõ tâm tính của anh ta sau khi người em trở về. Anh đâm ra ghen tức và không bằng lòng với hành động của cha là mở tiệc ăn mừng người em sau một thời gian ăn chơi trở về. Một lần nữa người cha lại hạ mình xuống đối với người con cả này, để van xin anh trở vào để cùng chung vui với gia đình “cha cậu ra năm nỉ cậu” (x. Lc 15, 28). Thái độ của anh vẫn khăng khăng không chịu vào, còn kể công lao của mình và gán ngay cho cha mình tội ích kỉ nữa “chưa bao giờ cha cho lấy được một con bê con để con ăn mừng” (x. Lc 15,29). Một lần nữa nước mắt người cha lại chảy ngược một lần nữa, chấp nhận cay đắng. Không ngờ anh ta ở với cha nhưng thực ra anh đâu có nhận ra được tình yêu thương của người cha dành cho anh, anh chỉ nghĩ đến cái gì là thực dụng mà thôi chứ không nghĩ mình ở với cha là một niềm vinh dự lắm hay sao.
Anh đã được nên một với cha mà từ trước đến này anh đâu có biết, anh chỉ sống với cái thân xác chứ lòng trí anh đâu có thuộc về cha, khi người cha nói “tất cả những gì của cha đều là của con” (x Lc 15,31). Nếu người biết nghĩ có lẽ câu này rất đau nhưng đối với người con cả này không biết có biết suy nghĩ hay không?. Đau ở chỗ, người con này quá vô tâm, chỉ nghĩ đến của cải. Anh không biết rằng xuất năm tháng qua anh đã làm chủ cuộc đời của cha, nên một với cha, cha ở trong con và con ở trong cha, mối dây này không bị gián đoạn, cha và con như hình với bóng bên nhau mà con không biết sao. Tất cả mọi thứ xung quanh anh sử dụng cũng như cha sử dụng mà, sao con lại nghĩ là cha không cho “Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con” (x. Lc15,31).
II/ Áp dụng:
Qua bài Tin mừng trên, cho ta thấy hình ảnh người cha là hình ảnh Thiên Chúa. Hình ảnh 2 người con là hình ảnh của mỗi người.
Thiên chúa luôn luôn yêu thương con người. Ngài luôn tôn trong tự do của con người, Ngài luôn trông ngóng con người biết nhận ra lỗi lầm để quay trở về với ngài. Ngài luôn giang rộng cánh tay để đón chờ chúng ta trở về. Một khi chúng ta thật sự nhận ra lỗi lầm mà ăn năn trở về thì Thiên Chúa sẽ luôn vui mừng, tiếp đón chúng ta một cách nồng hậu nhất. Ngài sẽ không hắt hủi hay đuổi chúng ta đi, mà chính ngài sẽ ra đón và trào hôn bình an cho chúng ta.
Hình ảnh người con thứ, phải chăng đó là hình ảnh của con người. Chúng ta luôn mong muốn đi tìm cái mới lạ, thậm chí những đường hướng nghịch với Đức Ki-tô. Đối với xã hội ngày hôm nay, đây là một điều rất dễ dẫn chúng ta tới con đường của trụy lạc. Qua đó đánh mất nhân tính của mình.
Thực sự, những lần chúng ta rơi vào tình trạng tội lỗi như vậy, chúng ta có noi gương người con thứ để biết ăn năn trở lại để làm lại cuộc đời hay không? . Hay một khi đã đi vào con đường đó thì đi luôn “đâm lao thì theo lao”. Chúng ta đừng nghĩ, con đường tội lỗi của mình Thiên Chúa sẽ không tha thứ, Ngài luôn luôn mở rộng cánh tay để đón chờ, miễn làm sao chúng ta nhận ra được lỗi lầm và từ bỏ con đường tội lỗi để trở về với Ngài hay không. Cho nên, Đối với Ki-tô giáo, Bí tích Hòa Giải, là bí tích đưa chúng ta trở về với Thiên Chúa, cho ta được gắn kết với ngài sau những lầm lỗi của mình.
Mỗi lần đến với Bí Tích Hòa Giải, là mỗi lần chúng ta đối diện với những lầm lỗi của mình, để xin Chúa tha thứ và đón nhận người con tội lỗi này. Qua đó, chúng ta sẽ nhận được hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa luôn dành sẵn cho ta.
Nhiều lúc, chúng ta cũng rơi vào hình ảnh của người con cả. Từng giây, từng phút chúng ta ở trong nhà Chúa những chúng ta đâu có nhận ra tình thương Thiên Chúa dành cho ta. Nhiều lúc ta cũng ghen tỵ khi thấy một người cả một đời sống trong tình trạng tội lỗi và cuối đời xin được năn năn trở lại để lãnh nhận các bí tích. Tất nhiên Thiên Chúa rất vui mừng đón nhận vì cuối đời họ đã nhận ra được thánh ý Chúa.
Thực sự, chúng ta ở trong nhà chúa đó, nhiều lúc chỉ có xác chứ không có hồn, chúng ta chưa sống thực sự là người con cái Thiên Chúa. Chúng ta đón nhận Thân thể Chúa mỗi ngày đó, nhưng mình đã sống mối giây hiệp thông, có lấy Chúa làm tâm điểm cho đời sống mình hay là mình làm ô danh Chúa bằng chính đời sống bất nhân của mình. Mang trong mình người Ki-tô hữu, chúng ta phải sống như thế nào để chúng ta loan báo Tin mừng của Chúa cho moi người.
III/ Kết luận
Dụ ngôn người cha nhân hậu là bài học rất lớn cho con người. Hình ảnh hai người con luôn có ở trong con người của mình. Đoạn Tin mừng này cũng là niềm vui cho những người có tấm lòng ăn năn trở lại và cũng là những lời cảnh báo cho những người đã và đang theo Đức Ki-tô, đó là ở trong ngôi nhà của Thiên Chúa.

Trong dụ ngôn này, Chúa Giê-su cũng nhắm tới những người biệt phái thời bấy giờ và nhắm tới chúng ta. Người cha là Thiên Chúa, người con thứ chính là hình ảnh những người thu thuế và tội lỗi, người con cả chính là những người thông thái về luật hay còn gọi là bọn biệt phái và Pha-ri-sêu.