Ant.
Nguyễn Công Chính
Trong tông huấn Ecclesia in Africa (1995),
định nghĩa hội nhập văn hóa như sau: Hội nhập văn hóa là tiến trình hướng tới
việc truyền giáo đầy đủ. Mục đích của hội nhập văn hóa là giúp con người sẵn
sàng đón nhận Đức Giêsu Kitô cách trọn vẹn, đồng thời, biến đổi họ trên bình
diện cá nhân, văn hóa, kinh tế, chính trị, ngõ hầu dẫn họ tới cuộc sống kết
hiệp mật thiết với Chúa Cha qua hoạt động của Chúa Thánh Thần.[1]
Dựa trên định nghĩa này, người viết muốn khai triển một khía cạnh nhỏ về “sứ vụ linh mục trong việc hội nhập văn hóa
tại các giáo xứ.” Qua đó, phần nào có thể hiểu rõ và sáng tỏ hơn định nghĩa
trên và cũng cho ta thấy tầm quan trọng trong việc hội nhập văn hóa.
Có thể nói, ngoài phân
biệt sự khác nhau giữa con người và các sinh vật trên mặt đất ở “lý trí,” thì
còn thêm một khẳng định cho sự khác nhau này chính là “văn hóa.” Thực vậy, con
người là hữu thể văn hóa.[2]
Geertz cho rằng con người là sinh vật “bị treo” trên lớp mạng do mình dệt nên,
trong đó, văn hóa là quan trọng nhất.[3] Con người
sinh ra, ngoài việc thích nghi với môi trường sống, còn có một sự thích nghi
với “văn hóa” của môi trường đó. Chính “văn hóa” này sẽ hình thành nên nhân
cách, cách suy nghĩ của con người đó.
Người viết xin được mượn câu nói của
Cervanter- Tây Ban Nha, để nói về văn hóa: Hãy nói cho tôi biết, bạn của anh là
ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là ai. Mặc đù không đúng hoàn toàn nhưng phần
nào đó cũng cho ta thấy được sự tượng phản của một ai đó hình thành nên nhân
cách và tính tình của người đó. Chính vì thế, ta có thể nói, con người được
sinh ra trong một nền “văn hóa” như thế nào thì cũng sẽ hình thành lên sự phát
triển của con người đó như vậy. Qua đó, ta thấy được mỗi nơi, mỗi vùng có một
nền văn hóa khác nhau. Vì thế, ta không thể bê một nền văn hóa hoàn toàn mới lạ
để áp dụng vào một nền văn hóa đã hình thành lâu đời.
Thực vây, vấn đề hội nhập văn hóa là một công
việc hết sức khó khăn và cần thiết của các nhà truyền giáo nói chung và các
linh mục quản xứ trong thời đại hôm này nói riêng. Mỗi giáo xứ có một nền “văn
hóa” khác nhau, chính nền “văn hóa” này đã hình thành nên nhân cách và lối sống
của con người tại giáo xứ đó, nên nhiệm vụ trước tiên của linh mục khi được
“sai đến” là phải tìm hiểu văn hóa của giáo xứ đó, để thích nghi với cách sống
và lối suy nghĩ của những con người trong giáo xứ đó. Đây cũng là lý do người
viết muốn khai triển định nghĩa trên. Qua đó thấy được vai trò của sứ vụ linh mục
trong việc hội nhập văn hóa tại các giáo xứ. Từ đó, mang lại hoa trái Chúa Ba
Ngôi đến từng thành viên trong cộng đoàn giáo xứ, để Chúa Ba Ngôi hằng hướng
dẫn và đi vào nội tâm đời sống của mỗi người trong giáo xứ.
1/
Khái Quát Vai Trò Của Sứ Vụ Linh Mục
a/
Vai trò giảng dậy
Trong
ngày lễ ngũ tuần, Ðức Giêsu nói với mười một tông đồ rằng: Anh em hãy đi khắp
tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.[4] Đây không
những là lệnh truyền của Chúa Giê-su đối với các môn đệ nhưng còn là lệnh
truyền dành cho muôn thế hệ, những người đang thuộc về Đức Ki-tô qua bí tích
rửa tội. Thể hiện cách rõ ràng nhất lệnh truyền này đó chính là hàng Giáo Sĩ và
những người đang âm thầm dâng hiến cuộc đời mình trong Đức Ki-tô. Thật vây, linh
mục mang trong mình sứ mệnh của Đức Ki-tô đến mọi nơi trên mặt đất này, cách
đặc biệt đến những nơi mà Lời Chúa chưa được đến với họ. Trong niềm tin vào Đức
Ki-tô, dân Chúa được quy tụ trước tiên là nhờ lời Thiên Chúa hằng sống, lời này
phải được đặc biệt tìm thấy nơi miệng lưỡi các linh mục. [5] Chính đời
sống và lời giảng của các linh mục là bảo chứng lệnh truyền của Đức Ki-tô đang
được thực hiện.
b/
Vai trò Thánh Hóa
Chúa Con nhiệm sinh từ Chúa Cha, Ngài đã ban
chính Con yêu dấu của Ngài cho nhân loại, để nhân loại được ăn năn sám hối trở
về với tình yêu bao la của Thiên Chúa. Thực vậy, Chúa Giê-su, ngoài việc kêu
gọi mọi người ăn năn sám hối, Ngài luôn để ý và kêu gọi những người bước theo
hành trình rao giảng, “Người bảo các ông: các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho
các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá,”[6] những con
người này sẽ tiếp nối sứ mạng của Chúa Giê-su sau này. Khi xưa, các tông đồ
được Chúa Giê-su kêu gọi thì nay các tông đồ cùng kêu gọi những người khác bước
theo các tông đồ “Thưa anh em, anh em hãy tìm trong cộng đoàn bảy người được
tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan, rồi chúng tôi sẽ đặt họ làm công việc
phân phát lương thực.”[7]
Chúng ta có thể khẳng định rằng, lời kêu gọi này sẽ được thực hiện đến muôn
ngàn đời. Quả thật, Thiên Chúa mới là tác nhân chính trong viêc kêu gọi này và
chính Ngài sẽ biển đổi những con người này nên giống Chúa Ki-tô. Thật vậy,
Thiên Chúa là Đấng Thánh và là Đấng thánh hóa duy nhất đã muốn nhận một số
người làm cộng sự viên và trợ tá, những người khiêm tốn phục vụ công việc thánh
hóa. Các linh mục được Thiên Chúa hiến thánh qua tay Giám mục, để nhờ được tham
dự cách đặc biệt vào chức tư tế của Chúa Ki-tô, các Ngài cử hành việc phụng tự
thánh với tư cách là thừa tác viên của Đấng không ngừng thực thi trong phụng vụ
tác vụ tư tế của Người, nhờ Chúa Thánh, để mưu ích cho chúng ta.[8]
Chính vì thế, linh mục được thông dự cách tròn dầy vào thân hình mầu nhiệm Chúa
Ki-tô qua việc cử hành các bí tích của Chúa Ki-tô, là đầu và là trưởng tử của
Hội Thánh.
c/
Vai trò quản trị
Qua thánh chức! linh mục là những người quản
lý và phân phát kho tàng ơn Thánh Chúa cho hết thảy mọi tín hữu. Thực vậy,
trong Hy tế Thánh lễ, các linh mục hãy dạy cho các tín hữu biết dâng lên Chúa
Cha lễ vật chí thánh và hợp dâng vào đó lễ vật đời mình, trong tinh thần của vị
Mục Tử nhân lành, các ngài khuyên nhủ họ thành tâm thống hối xưng thú lỗi lầm
với Giáo Hội qua bí tích Hòa Giải để ngày càng quay về gần Chúa hơn,[9] bằng cách luôn nhớ lời Người bảo: “Hãy thống
hối vì Nước Trời đã đến gần.” [10]
Chính vì vậy, linh mục phải ra sức rao giảng, để ơn Thánh Chúa được triển nở và
đến với từng người trong cộng đoàn.
2/
Áp Dụng Ba Vai Trò của Sứ Vụ Linh Mục
Trong Việc Hội Nhập Văn Hóa.
Trong Lời rao giảng của Chúa Gie-su, Ngài luôn
lấy những hình ảnh thực tế để áp dụng vào Lời rao giảng, như: Chúa Giê-su chữa
người bị bệnh phong và lấy hình ảnh con bò để giải thích. “Ai trong các ông có
đứa con trai hoặc có con bò sa xuống giếng, lại không kéo nó lên ngay, dù là
ngày sa -bát” [11]
hoặc “Người đem một em nhỏ đặt giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói: Ai tiếp đón
một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy, và ai tiếp đón
Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy”[12]......
Trong bối cảnh thế giới ngày nay, việc giảng
thuyết của linh mục thường gặp rất nhiều khó khăn, vì thế để có thể lay động
tâm hồn người nghe, lời giảng không chỉ trình bày Lời Chúa cách tổng quát và
trìu tượng, nhưng phải áp dụng chân lý ngàn đời của Tin Mừng vào các hoàn cảnh
cụ thể của cuộc sống.[13]
Quả vậy, con người trong xã hội ngày nay đang được hưởng một văn minh hiện đại,
từ đời sống đến khoa học trí tuệ. Chính vì thế, Đức Chân phước Giáo Hoàng
Phaolô VI đã nhấn mạnh giá trị của đời sống chứng nhân trong việc loan báo Tin
Mừng: “Người thời nay tin vào các chứng nhân hơn là thầy dạy, và nếu họ có tin
vào thầy dạy là vì các thầy dạy ấy đã là những chứng nhân,”[14] đây là
bổn phận và trách nhiệm của linh mục được sai đến với cộng đoàn tín hữu. Thật
vậy, các ngài không thể là thừa tác vụ của Đức Ki-tô nếu không trở nên chứng
nhân và nên người ban phát một đời sống khác với đời sống trần thế này, tuy
nhiên các ngài không thể phục vụ nhân loại nếu lại trở nên xa lạ với cuộc đời
và những hoàn cảnh sống của nhân loại.[15]
Thực vậy, linh mục được sai đến không phải
ngồi một chỗ trong một thế giới riêng tư, để không cân biết cộng đoàn mình sống
chết thế nào, để rồi đến giờ lễ, lên giảng một bài cho qua chuyện, không cần
biết những điều mình nói có phù hợp với cộng đoàn này hay không. Chính Thánh
Augstinnô nói: Cho anh chị em, tôi là Giám mục, với anh chị em, tôi là một
Ki-tô hữu. Chính vì thế, linh mục không phải là một con người cô lập, nhưng
ngài là thành viên của một tập thể hữu cơ, đó là Giáo hội phổ quát, giáo phận,
giáo xứ ....[16].
Có lẽ điều tối kị nhất đối với một linh mục đó là sự so sánh giữa xứ trước kia
và xứ hiện nay, bởi vì mỗi giáo xứ có một văn hóa khác nhau, nên linh mục không
thể áp dụng cách sống và cách mục vụ của xứ trước kia với xứ hiện tại được.
Chính vì thế, linh mục được mời gọi ra đi để tìm hiểu và hội nhập với văn hóa
trong xứ sở mới của mình. Từ đó, linh mục sẽ có đời sống và phương pháp mục vụ
và giảng dậy cho phù hợp với cộng đoàn được trao phó. Nếu một linh mục không
tìm hiểu văn hóa nơi đó thì những lời giảng dậy trở nên nhàm chán và thất bại
trong đường hướng mục vụ tại chính nơi mình được sai đến. Vì thế, việc đầu tiên
của linh mục khi được sai đến là tìm hiểu văn hóa và cuộc sống ở nơi đó như thế
nào. Đây là một công việc không ai có thể làm thay cho linh mục mà chính linh
mục phải đi ra và tìm hiểu. Từ đó, linh mục mới cảm nhận được bằng chính con
tim và khối ốc của vị mục tử nhân lành đối với đoàn chiên. Qua đó, linh mục sẽ
thấy được những con chiên nào cần được chăm sóc và cần bằng bó cách chu đáo.[17]
Quả vậy, chính đời sống và gương sáng của linh mục là hình ảnh truyền giáo cách
mãnh liệt nhất. Linh mục được mời gọi đi ra, hòa cùng nhịp đập với con tim của
đoàn chiên. Từ đó, linh mục mang tất cả tâm tư, ước nguyện vào Lời Chúa, để nói
với cộng đoàn, chắc chắn cộng đoàn sẽ cảm nhận được Lời Chúa và được chính Chúa
Giê-su đánh động và thôi thúc họ bỏ con đường tội lỗi mà trở về. Thật vậy, giữa
lòng dân Chúa, các tư tế của Giao Ước mới, do ơn gọi và chức thánh, một cách
nào đó cũng đã được dành riêng, không phải để tách biệt khỏi đoàn dân hoặc khỏi
bất cứ một ai, nhưng để được thánh hiến hoàn toàn cho công việc Chúa trao phó.[18]
Một mặt, linh mục vừa
phải sống và hội nhập với văn hóa trong giáo xứ cách nhanh nhất, mặt khác linh mục cũng
phải chu toàn bổn phận thánh
hóa, để cộng đoàn tín hữu được kết hợp trọn vẹn với thân mình Đức Ki-tô nhờ việc lãnh nhận Thánh Thể. Bởi vì, bí tích
Thánh Thể là nguồn mạch và chóp đỉnh của toàn thể cộng cuộc loan báo Tin Mừng.[19]
Chính vì thế, linh mục dù có bận rộn công việc đến mấy cũng phải liệu sao để
hằng ngày cộng đoàn tín hữu được đón nhận thần lương nuôi sống linh hồn. Linh
mục cũng phải tìm hiểu và liệu thời gian cho phù hợp để cộng đoàn trong giáo xứ
được tham dự bí tích Thánh Thể cách đông đủ nhất. Thật vậy, bí tích Thánh Thể
còn được kéo dài suốt ngày trong các giờ Kinh Nhật Tụng, khi các ngài nhân danh
Giáo hội khẩn cầu cùng Thiên Chúa cho đoàn dân đã được trao phó cho các ngài,
đồng thời cũng cầu cho toàn thể thế giới.[20]
Bí tích Thể là trung tâm đời sống Ki-tô hữu,
nên các linh mục phải tạo bầu khí trang nghiêm trong việc cử hành, để cộng đoàn
được kết hợp với Chúa Giê-su Thánh Thể cách trọn vẹn. Chính vì thế, linh mục
không nên biện lý do là hội nhập văn hóa mà biến việc cử hành Thánh Thể như một
buổi hòa nhạc hay một buổi múa phụ họa hay những việc đạo đức khác mà không chú
trọng đến việc cử hành bí tích Thánh Thể. Có những linh mục quá chú tâm đến
dáng vẻ bên ngoài mà quyên đi nét đep bên trong tâm hồn. Thật vậy, những nghi
lễ dù đẹp mắt, những hội đoàn dù phát triển rầm rộ, cũng sẽ thành vô ích, nếu
không hướng đến mục tiêu giáo dục mọi người trở nên những Ki-tô hữu trường
thành.[21]
Trưởng thành ở đây là trưởng thành về đời sống đức tin, đời sống luân lý, để
qua đó người ngoài nhìn vào sẽ nhận biết cộng đoàn tín hữu này là môn đệ của
Đức Ki-tô.[22]
Như vây, để cho cộng đoàn tín hữu được
tràn đầy ơn Thánh và có đời sống nội tâm sâu sắc, trước hết linh mục cần có đời
sống thánh thiện và đời sống nội tâm sâu sắc trước nhất. Nhờ đó, ơn thánh Chúa
được tuôn tràn trên linh mục và cộng đoàn tín hữu. Người viết xin được mượn
Thánh vịnh 133 để nói lên sự tuân tràn ơn thánh từ đời sống thánh thiện của
linh mục.
Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
anh em được sống vui vầy bên nhau,
Như dầu quý đổ trên đầu
xuống râu xuống cổ áo chầu A-ha-ron,
như sương từ đỉnh Khec-môn
tỏa trên đồi núi Xi-on lan tràn,
nơi đây ân huệ Chúa ban,
chính là sự sống chứa chan muôn đời.
Không những thế, linh mục là người quản lý và
phân phát kho tàng ơn thánh Chúa cho hết thảy mọi tín hữu, cách đặc biệt đối
với cộng đoàn giáo xứ đã được Chúa và Giáo hội trao phó. Vì thế, ngoài bổn phận
phải cắt nghĩa cho giáo dân hiểu được tầm quan trọng của nguồn ơn thánh, trước
hết linh mục phải trở nên những người quản lý cách khôn ngoan và trung tín.
Quản lý cách khôn ngoan và cách trung tín ở đây không có nghĩa là khôn ngoan và
trung tín theo kiểu của thế gian, chỉ biết làm lợi cho mình mà quyên đi những
người xung quanh. Có lẽ câu truyện về dụ ngôn người quản lý bất lương trong Tin
Mừng,[23] phần nào cho ta hiểu về
người quản lý cách khôn ngoan và trung tín theo kiểu của thế gian và điều Thiên
Chúa muốn nơi người quản lý kho tàng ơn thánh.
Quả vậy, khôn ngoan và trung tín là hai đức
tính rất cần thiết cho người quản lý. Nếu người quản lý chỉ trung tín mà thiếu
khôn ngoan, thì đó chỉ là người bảo vệ kho tàng của chủ mà không sinh ích gì
cho chủ. Còn nếu như người quản lý chỉ khôn ngoan mà không trung tín, thì trước
sau cũng trở thành người phản chủ hoặc là người làm thiệt hại của chủ. Như vậy,
Chúa Giê-su mong muốn nơi người linh mục hội tụ cả hai yếu tố khôn ngoan và
trung tín. Chính nhờ hai yếu tố này, linh mục là cánh tay nối dài của Thiên
Chúa, hầu mang lại nguồn ơn thánh cho cộng đoàn tín hữu. Chính vì thế, linh mục
phải khôn ngoan mang Lời Chúa vào trong văn hóa của cộng đoàn để mà giảng dậy,
nhờ đó Lời Chúa được thấm nhuần và đi sâu vào cuộc sống hiện tại của tín hữu,
hầu có thể phân phát ơn thánh Chúa cho hết thảy mọi người. Nhưng cũng không vì
lý do này mà linh mục làm mất giá trị của Lời Chúa và phân phát kho tàng ơn
thánh cách không đúng và làm phương hại đến ơn thánh “của Thánh, đừng quang cho
chó; ngọc trai, chớ liệng cho heo, kẻo chúng giày đạp dưới chân, rồi còn quay lại cắn xé anh em.”[24]
Chính vì vậy, để thực hiện tốt vai trò quản lý
thì linh mục phải ra sức giảng dậy giáo lý và sống với văn hóa của cộng đoàn,
hầu có thể hiểu và phân phát ơn thánh Chúa cách tốt nhất. Sở dĩ linh mục phải
hội nhập với văn hóa của cộng đoàn trước tiến, để qua đó linh mục có thể hiểu
và truyền dậy và phân phát ơn thánh cách tốt nhất. Qua đó, linh mục cũng có thể
dựa vào Lời Chúa mà “chuyển hướng” cách khôn khéo những “văn hóa” không cần
thiết hay rườm rà trong phụng vụ hoặc đời sống, hầu mang lại cách “trọn vẹn”
nguồn ơn thánh cho cộng đoàn tín hữu đã được trao phó.
3/
Tạm kết
Qua định nghĩa về “Hội Nhập Văn Hóa” trong
tông huấn Ecclesa in Africa (1995), và người viết triển khai trong cái nhìn về “sứ vụ
Linh mục trong việc hội nhập văn hóa giáo xứ,” phần nào đó cho ta thấy vấn đề
hội nhập văn hóa là hết sức cần thiết đối với linh mục nói riêng và tất cả mọi
người nói chung. Bởi vì, con người được mời gọi sống hiệp thông và kết hợp mật
thiết với nhau trong một cộng đoàn làng xã nào đó. Như bài hát trong Album bài
ca giáo lý-sinh hoạt có viết: Tôi chỉ thực sự là người nếu tôi sống với anh em
tôi! không phải ai xa lạ mà là người đang đứng bên tôi! Thế giới này không ai
là một hòn đảo! vườn hoa này không có loài hoa lạc loài. Qua đó, cho ta thấy
giá trị của hội nhập văn hóa không những trong con người mà cả thế giới thụ
tạo. Thực vậy, đã là con người thì không ai là một hòn đảo, nên con người được
mời gọi sống với các mối tương quan, để sống được với các mối tương quan thì
trước tiên là phải hiểu về cuộc sống và văn hóa ở đó như thế nào. Khi đã hiểu
được thì những lời nói và cách cư xử của mình dễ được người khác chấp nhập và
tán thành. Đối với con người, có thể nói khắp nơi trên thế giới này đều là nhà
và tất cả mọi người xung quanh là anh em của ta.
Quả thực, sứ vụ chính yếu của linh mục là mang
kho tàng ơn Thánh đến với muôn dân, và giúp mỗi người được tiến đến gần tình
yêu Chúa hơn. Chính vì thế, linh mục phải biết hội nhập văn hóa, để cho Lời
Chúa được đi sâu vào trong trái tim của từng người trong cộng đoàn chứ không
phải là cải vỏ bên ngoài. Chính tông đồ Phaolô đã nói “Giả như tôi được các thứ
tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi
cũng chẳng khác gì thanh là phèng phèng, chũm chọe xoang xoảng. Giả như tôi
được ơn nói tiên tri, và được biết hết mọi điều bí nhiệm , mọi lẽ cao siêu hay
có được tất cả đức tin đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi
cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp
cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng có ích
gì cho tôi.”[25]
Như vậy “Đức Mến” ở đây ta có thể hiểu
về “sự hội nhập văn hóa của linh mục trong cộng đoàn giáo xứ.” Quả vậy, khi
linh mục tìm hiểu văn hóa ở giáo xứ đó thì những củ chỉ của linh mục mang đậm
nét yêu thương, một cử chỉ xuất phát từ con tim chứ không phải từ ý chí đến đôi
bàn tay, tất cả những thử đó khi hành động mà không có “Con Tim” thì cũng giống
như thanh là kêu “pheng pheng” mà thôi.
[2] ĐGM. Nguyễn Văn
Viên, Hội Nhập Văn Hóa và Đối Thoại Liên Tôn, năm 2016, Tr 22.
[3] Ibid, 22.
[5] Công Đồng
Vaticano II, Sắc lệnh về tác vụ và đời sống linh mục, Số 4,588.
[6] Mc 1,17
[7] Cv 6,3
[9] ID, Sắc lệnh về
tác vụ và đời sống linh mục, Số 5, 593
[10] Mt 4,17
[11] Lc 14,5
[12] Mc 9,36-37
[13] ID, sắc lệnh về
tác vụ và đời sống linh mục, số 4, 590.
[14] Thông điệp
Evangelii nuntiandi, số 41.
[16] Lm. Giu-se Lê
Công Đức, linh đạo linh mục giáo phận, Nxb Phương đông, 2013, 49.
[17] Ed 34,16
[18] ID, Sắc lệnh về
tác vụ và đời sống linh mục, Số 3, 586.
[19] ID, Sắc lệnh về
tác vụ và đời sống linh mục, Số 5, 593
[21] ID, Sắc lệnh về
tác vụ và đời sống linh mục, Số 6, 596.
[24] Mt 7,6.
[25] 1 Cr 13,1-3