<script async src="https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js?client=ca-pub-8290387625340435"
crossorigin="anonymous"></script>
Lời nói đầu: Bài nầy được viết do đọc bài “Lễ
Gia Tiên hay Ý nghĩa một cuộc trở về nguồn” trong tác phẩm “Về Nguồn” của Giáo
sư Vũ Ký, do Trung Tâm Văn Hóa Xã Hội Phật Giáo Việt Nam tại Công Hòa Liên Bang
Đức xuất bản năm 2002. Nơi đây xin góp thêm một số ý mong mở rộng thêm một
“tinh hoa của truyền thống dân tộc”. N.T.
Không rõ thuật ngữ “ĐẠO ÔNG BÀ” xuất hiện vào
thời nào trong ngôn ngữ Việt Nam, có thể đã rất lâu đời trong dân gian. Trong
văn chương bác học, có lẽ từ khi bắt đầu có chữ Nôm vì danh từ “Ông Bà” quá nôm
na đối với giới sĩ phu Nho học trước đó (người viết chỉ phỏng đoán, chứ không
có dữ kiện để xác định).
Lâu nay, nói đến “Đạo Ông Bà”, ta thường nghĩ
đấy là việc “thờ cúng tổ tiên” và hàng năm, vào ngày Tết Nguyên Đán thường có
“Lễ Gia Tiên” được xem là nghi thức, là cách thức thể hiện “Đạo Ông Bà” hầu khắp
cả nước trong lúc việc “giỗ cúng ông bà, cha mẹ” tại mỗi nhà thuộc phạm vi từng
gia đình vào từng thời gian khác nhau theo ngày qua đời của ông bà, cha mẹ. Vì
quan niệm đơn giản là “Thờ cúng tổ tiên” nên “Đạo Ông Bà” thường được đồng
nghĩa với “Đạo Hiếu” nơi Khổng giáo, nói lên lòng yêu thương, phụng dưỡng cha
mẹ lúc cha mẹ còn sống và thờ kính, nhớ ơn cha mẹ lúc cha mẹ qua đời. “Đại hiếu
chung thân phụ mẫu”, lời nầy của Đạo Nho nói lên đạo đức của con cái là phải
suốt đời lo lắng, chăm sóc cha mẹ, vâng lời cha mẹ, không gây buồn phiền cho
cha mẹ, không được rời xa cha mẹ và dù phải vì mục đích nào phải xa cha mẹ (vì
nghĩa vụ đối nước non, dân tộc) thì cũng phải luôn luôn nhớ nghĩ đến cha mẹ,
tạo nên tiếng tốt, việc tốt cho cha mẹ vui lòng, làm hiển danh cha mẹ. Người
Việt Nam đã tiếp thu Đạo Hiếu nầy qua Khổng giáo (thật ra đạo Hiếu đã có sẵn
nơi Đạo Ông Bà) và còn kết hợp ‘Hiếu’ với ‘Thảo’ để thành “Đạo Hiếu Thảo”
(không rõ đạo Nho có nhấn mạnh đến chữ ‘Thảo’ hay không, có gọi là ‘Đạo Hiếu
Thảo’ hay chỉ là ‘Đạo Hiếu’ không thôi, kính xin các bậc cao minh chỉ giáo cho
người viết – ‘Thảo’ có nghĩa ‘nhường nhịn, chia xẻ, san sẻ, bù đắp’ cho nhau
chứ không ganh tỵ, ích kỷ, tranh giành giữ riêng cho mình. Như thế, ‘Thảo’ chỉ
cách đối xử, liên hệ giữa vợ chồng, con cái, anh chị em luôn yêu thương, hòa
thuận trong hiện tại cũng như lâu dài về sau; điều nầy càng nâng chữ ‘Hiếu’ lên
một bậc vì khiến cha mẹ vui lòng được thấy con cái luôn luôn thuận hòa, gắn bó,
thương yêu, giúp đỡ nhau. Có lẽ, do ý nghĩa nầy mà người Việt Nam đã ghép chung
từ ‘Hiếu’ với từ ‘Thảo’ ).
Do hiểu “Đạo Ông Bà” riêng theo nghĩa “Đạo
Hiếu” nên người Tây Phương thường gọi “Đạo Ông Bà” là ‘Le culte des ancêtres’
(sự thờ cúng tổ tiên). Nếu chỉ ‘thờ cúng tổ tiên’ không thôi thì chưa thể gọi
là “Đạo” và dân tộc nào hầu như cũng đều có tục ‘thờ cúng tổ tiên’ như ta dù
hình thức có khác. Người phương Tây, tuy không có bàn thờ ông bà trong nhà,
không tổ chức cúng vái, mâm cỗ, nhang đèn, không tụ họp gia đình, không mời bà
con thân thích trong ngày giỗ cúng nhưng lại có ngày “Fête des Morts”, (ngày lễ
Toussaint) và họ thăm viếng nghĩa trang, tu bổ mồ mả; lại có những ‘Fête des
Mères’, ‘Fête des Pères’, ‘Fête des amoureux’ (ngàyValentin) ngay lúc cha mẹ,
vợ chồng còn sống và trao nhau tặng vật. Đấy là những tục lệ hay đẹp của người
phương Tây; riêng về sự tưởng nhớ ông bà trong ngày ‘Lễ tưởng niệm người chết’
(fête des Morts) không lắm tính cách long trọng, thiêng liêng như ở Việt Nam.
Vì thế, sự ‘tưởng niệm ông bà’ của người phương Tây là một mỹ tục chứ không trở
thành một ‘Đạo’ như đối với người Việt chúng ta.
Người viết nghĩ rằng “Đạo Ông Bà” của người
Việt Nam mang nhiều ý nghĩa cao sâu hơn ngoài việc ‘nhớ ơn và thờ phụng ông
bà’.
1) Trước tiên, ta gọi là “Đạo Ông
Bà”. Từ “Đạo” vừa là ‘đạo lý’ vừa là ‘con đường’. “Đạo lý” vì nói lên nguyên lý
hướng dẫn tư duy và hành động cùng thái độ cư xử của con người trong cuộc sống
cộng đồng. “Con đường” vì những nguyên lý đó đưa dẫn con người hướng đến cùng
tìm về một thứ gì đó tốt đẹp, cao sâu, huyền nhiệm để cuộc sống thường nhật
mang lấy một ý nghĩa cao quí. Từ “Đạo” nơi “Đạo Ông Bà” không hẳn giống với từ
“Đạo” nơi các Tôn giáo như Đạo Phật, Đạo Chúa. Từ “Đạo” nơi các tôn giáo, theo
người viết, bao gồm những tín lý, tín điều được nêu thành qui điều, ‘nguyên
tắc’, định chế, giáo luật, giới răn, giới cấm, những nghi lễ nhất định phải
theo và được khuôn ép vào một hệ thống lý luận cùng tổ chức (giáo hội, hàng ngũ
tu sĩ, tăng ni) thực hành riêng biệt theo từng tôn giáo. Từ “Đạo” trong “Đạo
Ông Bà” không có những tính cách đó. “Đạo Ông Bà”, thoạt tiên chỉ là một “Tín
ngưỡng” (niềm tin và sự ngưỡng vọng về niềm tin đó) trước khi là ‘tín lý’ (do
luận giảng của mọi người về sau); cũng không là ‘tín điều’ vì không có những
nguyên tắc, những ‘giới luật, giới răn, giới cấm’, những lễ nghi nhất định,
không do pháp chế áp đặt cũng không tuân thủ theo một hệ thống tri thức rao
giảng cùng hành động thực hiện nhất định, không có tổ chức thành giáo hội,
không có hàng ngũ đóng vai trò chỉ đạo, dẫn dắt; không có nơi thờ phượng nhất
định như nhà chùa, nhà thờ; không có kinh kệ, không có truyền giảng cũng chẳng
nhằm giáo huấn ai theo lối trường ốc. Dù có được mở rộng sự biết ơn và thờ cúng
ông bà thành sự biết ơn và thờ phụng tổ tiên cả dòng họ (các từ đường) cùng
danh nhân, anh hùng, liệt sĩ (các đền thờ, đình miếu) thì cũng không ra ngoài
tính cách tín ngưỡng hơn là tôn giáo. Đạo Ông Bà nặng về tình cảm hơn là tín
lý, tín điều. Do đó, có thể nói “Đạo Ông Bà” của người Việt Nam là một “Tín
ngưỡng không Tôn giáo” hay nói cách khác: “Đạo Ông Bà tiêu biểu cho tinh thần
tôn giáo của dân tộc ta, một thứ tôn giáo không kinh kệ; không giáo luật, giáo
quy; không hệ thống tổ chức; không truyền giảng và cũng không nhất thiết tuân
theo những lễ nghi nhất định”. Vì là một ‘tín ngưỡng’ nên Đạo Ông Bà thể hiện
nơi “tấm lòng”, nơi “tâm khảm” nhiều khi không cần thiết một lễ nghi và cũng
không nhất thiết phải vào đúng ngày Ông Bà, Cha Mẹ đã qua đời. Nhà thơ Phương
Triều, khi thuật lại cảnh một ông già sống lây lất nơi Xóm Mộ, một nghĩa trang
nhỏ vùng quê ông sau cuộc ‘đổi đời’ bi thảm do cộng sản phủ trùm lên nhân dân
Miền Nam từ sau 30/4/1975, đã thực hiện “Đạo Ông Bà” trong hiu hắt buồn đau não
nùng trong ngày Tết:
-Nghĩa địa góc quen chiều chợt Tết
Ông già mở lại gói đời quên
Bên kia chân mộ còn vuông đất
Lót lá làm mâm đón tổ tiên!….
(Tết, Xóm Mộ)
[chú thích: Đoạn thơ trích trong thi
tập “Xóm Mộ” (nxb Lê Huỳnh, Minnesota, Hoa Ky, 2001). Gói đời quên: Ông già
luôn mang theo bên mình một bọc trong đó có bài vị và tấm hình của cha mẹ. Gói
đời tha thiết nầy đành phải quên vì chế độ cộng sản buộc con người không được
nhớ đến ông bà, cha mẹ để chỉ nhớ ơn Đảng và Nhà nước Cọng sản thôi]..
Xin trích thêm một đoạn thơ khác cũng trong thi tập nầy,
nói lên nỗi đau buồn, tê tái của kẻ đành rời bỏ quê hương ra đi tìm tự do, nhắn
người em bày tỏ niềm ngậm ngùi thương nhớ mẹ cha, ông bà:
-Chừng em có dịp về thăm
mộ
Xin thắp giùm anh ngọn
nến buồn
Ngồi che gió lạnh cho riêng nến
Không cứ gì thêm những khói hương!
...
Nếu mai không thể về thăm mộ
Mà ngậm ngùi đau chốn viễn phương
Xin em thắp một lần cho nến
Nhìn lụn tàn theo nỗi nhớ thương...
(Thăm mộ)
<script data-ad-client="ca-pub-8290387625340435" async src="https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js"></script>
<script data-ad-client="ca-pub-8290387625340435" async src="https://pagead2.googlesyndication.com/pagead/js/adsbygoogle.js"></script>
Vì là một “tín ngưỡng không tôn giáo” nên dân
tộc ta dễ dàng dung hợp các tôn giáo du nhập: Phật, Khổng, Lão và cả Ky Tô giáo
cũng như mọi kiến trúc tinh thần khác của nhân loại. (Việt Nam chỉ có tôn giáo
của mình với hai đạo Cao Đài và Hòa Hảo từ thế kỷ XX. Đạo Thiên Chúa đến Việt
Nam kể từ thời Trinh-Nguyễn phân tranh và thời Tây Sơn, không hề có sự bài xích
tôn giáo nầy vào hai thời kỳ đó. Chỉ vào dưới các triều Minh Mạng, Thiệu Trị,
Tự Đức mới có sự kỳ thị tôn giáo nầy và tiếp theo là tình trạng giết hại giáo
sĩ và giáo dân do các phong trào Văn Thân, Cần Vương mà lý do chính chưa hẳn do
xung đột giữa văn hóa dân tộc (đạo Ong Bà) với Thiên Chúa giáo mà do động cơ
chính trị vì các phong trào đó cho rằng giáo sĩ, giáo dân Thiên Chúa giáo hoặc
là gián điệp hoặc tiếp tay thực dân Pháp xâm lăng Việt Nam).
2) Ta gọi “Đạo Ông Bà” chứ không gọi là “Đạo
Tổ Tiên”. “Tổ Tiên” hoàn toàn chỉ tiền nhân, lớp người quá cố; “Ông Bà”, từ
thuần Việt chỉ cả cha mẹ, ông bà hiện còn sống cùng tổ tiên và tiền nhân bao
lớp trước dù không cùng dòng họ. Trong ý nghĩa nầy, Đạo Ông Bà mang tính cách
truyền thống, nói lên mối liên tục lịch sử của cuộc sống chung, sợi dây liên đới
nối kết bao thế hệ quá khứ với thế hệ hiện tại, mối liên hệ không chỉ về huyết
thống, dòng họ mà còn về công nghiệp, về thành quả dựng xây được lưu truyền và
tiếp tục kế thừa qua lịch sử. Sự thờ cúng, tưởng nhớ ông bà là biểu hiện lòng
nhớ ơn bao lớp người đi trước đã cam khổ dựng xây bao công trình tốt đẹp mà nay
ta được thụ hưởng. Ca dao Việt Nam có câu:
-Non cao ai đắp mà cao
Sông sâu ai xới ai đào mà sâu?
‘Non kia, sông nọ’ nơi đây, trong một ý nghĩa
gần gũi, chỉ đất nước, non sông là công nghiệp bền bỉ lâu dài của bao đời tích
tụ đến hôm nay, không chỉ riêng về mặt vật chất mà còn là cái ‘truyền thống văn
hóa’ gìn giữ cuộc sống chung hài hòa tốt đẹp lưu truyền từ quá khứ. Tất cả đều
là “di sản” của tiền nhân, bao trùm lên tất cả là cái nguồn gốc xa xôi từ khởi
thủy của giống nòi. Đạo Ông Bà biểu hiện tấm lòng biết ơn, quí trọng cùng trách
nhiệm, bổn phận và ý chí gìn giữ, kế thừa cùng phát huy cái di sản tốt đẹp đó.
Điều nầy không do một quyền lực, một nền pháp chế nào áp đặt mà trước tiên phát
xuất từ cái ‘não bộ đạo tâm’ (sensorum religieux - xem bài của Vũ Ký), một
‘nguyên lý nội tại’ (principe interne), một yếu tố hay tính chất bẩm sinh nơi
con người (xem tác phẩm ‘Về Nguồn’ của Vũ Ký, trang 25), gìn giữ mối liên hệ
giữa người chết và người sống, được xem như một ‘di truyền tâm linh’ giữa các
thế hệ theo quan điểm ‘Vật Linh’ (animisme). Không giữ được Đạo Ông Bà là đánh
mất một tính chất cao quí của giá trị con người và trở nên một cản trở tai hại
cho văn hóa tức cho cuộc sống chung của cộng đồng. Đạo Ông Bà, vì thế, là một
tín ngưỡng trở thành một thuần phong mỹ tục, một truyền thống tốt đẹp của Văn
hóa.
Cũng nên nêu ra đây những trường hợp ông bà,
cha mẹ đã làm những viêc xấu xa, lỗi lầm như bán nước, hại dân hay những việc
làm tồi bại, đê tiện (trộm cướp, hiếp dâm, giết người, bóc lột, đày đọa kẻ
khác,...) thì con cái thực hiện “Đạo Ông Bà”, thực hiện “Đạo Hiếu” ra sao? Dĩ
nhiên cha mẹ, ông bà, tổ tiên, tiền nhân chúng ta qua suốt dọc dài lịch sử
không lắm kẻ vì hoàn cảnh sống, vì giai đoạn lịch sử đen tối, vì áp đặt của
những chế độ bạo tàn và vì óc tư hữu chiếm hữu cao độ đã phạm phải những lỗi
lầm, sai trái tầy trời nhưng Đạo Ông Bà không cho phép con cái phủ nhận công ơn
sinh thành, dưỡng dục mà phải yêu thương, nhớ tưởng, cúng giỗ, thờ phượng dù âm
thầm tủi nhục về hành động của cha ông đồng thời tự thân phấn đấu làm nên việc
tốt, việc thiện cùng giữ mình không rơi vào những điều xấu xa của lớp trước hầu
làm giảm nhẹ, chuộc tội cho cha ông đối với dư luận và lịch sử chứ không phải
tiếp tục các lỗi lầm của ông bà cha mẹ, rồi đổ thừa cho tại vì những ‘gène di
truyền’ của dòng họ. Tủi nhục, xấu hổ về những sai trái của ông bà, cha mẹ, hối
hận cho ông bà cha mẹ về những việc làm xấu xa của ông bà, cha mẹ và phấn đấu
tu sửa mình thành kẻ tốt, làm được những điều hay giúp ích cho người, cho đời
để gỡ tội cho ông bà cha mẹ; đấy là thể hiện đúng đắn Đạo Ông Bà trong những
trường hợp đó. (Một số cán bộ, cán binh cộng sản đã phản tĩnh quay lại chống
Đảng, chống chế độ Cộng sản vì đã nhìn ra, đã hối hận về những sai trái lỗi lầm
của cha ông và của mình đã gây ra cho dân, cho nước vì cuồng tín, say mê chủ
nghĩa, vì đã lầm lẫn làm công cụ cho Đảng và chế độ bạo tàn; những kẻ đó hiện
đang tìm cách trở về sống và thể hiện Đạo Ông Bà truyền thống văn hóa của dân
tộc).
3) Đạo Ông Bà thể hiện hướng vọng về nguồn
của dân tộc ta. Hướng vọng về nguồn tức tìm về với nguồn cội. Nguồn cội, trong
ý gần gũi nhất, chỉ Ông Bà, Tiên Tổ đã xây dựng nên dòng họ mình. Xa hơn chút,
nguồn cội là Tổ Tiên lâu đời đã sáng dựng nên dân tộc, quốc gia mà ta thường
gọi là quốc tổ. Xa hơn nữa và rộng sâu hơn nữa, nguồn cội chỉ cái yếu tố tiên
thiên, nguyên khởi đã ‘sinh thành’ vũ trụ gồm vạn hữu và con người. Cái yếu tố
nguyên khởi nầy được gọi theo nhiều danh xưng (xin không dông dài liệt kê nơi
đây, trong “Về Nguồn”, giáo sư Vũ Ký đã đề cập). Người viết, dựa theo Đạo học,
gọi đấy là Đạo Thể (Être), cái Hữu Thể nền tảng (L’Être fondamental), cái “Nhất
Thể Khởi nguyên” đã ‘tự tác động’ mình, tự ‘sắc tướng hóa’, tự ‘đối tượng hóa’
(s’objectiver) mình (nói theo tôn giáo và triết học), tự ‘vật chất hóa’ (se
matéraliser) mình (nói theo khoa học) để làm phát sinh vũ trụ hiện tượng (cõi
thế gian, cõi tục đế hay cõi hiện hữu) rồi chuyển dịch theo diễn trình tiến hóa
của cõi hiện hữu mà hồi phục lại mình cùng đưa vạn hữu trở lại với mình. Khoa
học ngày nay đang đi tìm cái ‘Đạo Thể, cái Nhất Thể Khởi nguyên, cái Một nguyên
khởi đó hay cái Cội Nguồn của vũ trụ qua những lý thuyết big-bang, tiền
big-bang, lý thuyết về sợi (théorie des Cordes) hay gì gì nữa để xác định đấy
là năng lượng, là một ‘lượng tử (quanta), một siêu lực (super force), một siêu
sợi (super corde) hay một Instanton hoặc gì khác. (Xin không bàn nhiều đến khoa
học nơi đây; riêng người viết nghĩ rằng khoa học không thể nào tìm ra theo cái
biết luận lý của mình lâu nay nếu không dựa vào Đạo học). Sư việc cái “Một
Nguyên khởi” tự tác động mình để từ “Tự Hữu” (en soi) đi vào “Hiện Hữu” (pour
soi, để tạo ra cõi Hiện Hữu) là một tác động nhiệm mật, không thể chứng minh.
Theo E. Kant là do “Nguyên nhân bởi Tự do” (Cause par Liberté), theo chúng tôi
là do cái “Tự do phát khởi nguyên nhân” (Liberté causale) tức là một tác động
đột khởi, một hoạt động tự động tuyệt đối (auto-activité absolue), cái năng lực
“tự phát hiện” để phát sinh một trạng thái, một sự việc mà tất cả những sự việc
về sau giúp soi sáng sự việc tiên khởi đó (xem “Hành trình vào Nhất Thể” của
NT&TMX, tập 1, nxb Mekong Tỵ nạn, Newark, CA, 2002). Một điều mà trước nay
hầu như chưa một ai lưu ý là “Cái Đạo Thể (Nhất Thể khởi nguyên, cái Một nguyên
khởi) luôn luôn dịch chuyển về Tương lai để hồi phục lại mình (Nhất Thể hồi
phục) và dòng vận hành chuyển dịch nầy ứng vào dòng diễn tiến sinh hóa của cõi
Hiện hữu (vạn hữu và con người) để đưa cõi Hiện Hữu trở về lại với mình. Do đó
mà có Lịch sử, có Tiến hóa của cõi Hiện hữu” . Khoa học không để ý vì cho đấy
là ý niệm trừu tượng, siêu hình không hợp với luận lý khoa học. Điều nầy, Đạo
học, tôn giáo và triết học đã nói nhưng mọi luận giảng trước nay chưa đề cập
thật rõ ràng. Đạo Thể hay cội nguồn luôn dịch chuyển về tương lai vì thế hướng
đến là tìm về, tương lai là buổi đầu quá Khứ , giờ chung cục chính là thời điểm
của Khởi Nguyên. Điều nầy, người xưa đã nói. Jésus đã bảo: ‘Ta là Alpha và
Omega, là đầu và rốt’, lời nầy có nghĩa ‘Thượng Đế (từ Ta nơi đây ám chỉ Thượng
Đế tức cái Đạo Thế, cái Nhất Thể khởi nguyên hay Cội Nguồn) tạo lập nên vũ trụ
rối chuyển dịch theo dòng vận hành sinh hóa của vũ trụ để đưa vũ trụ trở lại
với mình vào thời điểm cuối cùng của dòng tiến hóa nên cái Alpha trở về trong
Oméga, cái Khởi nguyên trở về trong cái Chung cục. Lời Phật: “Hồi đầu thị ngạn”
(quay đầu thấy bến). Bến, theo Kinh điển là Bến giác tức cái thời điểm cùng
trạng thái nhìn ra, sống với Tự Thể, Tự Tánh của mình và của chúng sinh. Nhưng
chính ra Phật muốn nói đến dòng tiến hóa của nhân sinh. Bến là nơi ta đến, tìm
về, bình an, đoàn tụ, thoát hết mọi gian nan, e ngại trong suốt hành trình lênh
đênh nơi sông hồ, biển cả (cõi hiện hữu trầm luân). Quay đầu nhìn về nguồn cội
mới thấy cái bến bình an, yên vui đoàn tụ đó vì “Cội nguồn dịch chuyển về tương
lai”. Đức Khổng đã bảo “Thiên hạ đồng quy nhi thù đồ”; Lão Tử bảo “Phản giả Đạo
chi động”, Trang Tử cũng bảo tương tự. Các nhà Tư tưởng Cổ Hy Lạp như
Pythagore, Héraclite, cũng cùng ý đó dù chưa thật rõ ràng. Trong những thế kỷ
gần đây, Nietzche đã bảo “Sự quy hồi miên viễn của Thể Tính đồng nhiên” (le
retour éternel de l’Identique); M. Heidegger viết “Ngày xưa của bình minh trong
ngày tới của tương lai” (le jadis de l’aurore dans le futur de l’avenir) và qua
thiên cảo luận ‘Le Chemin de Campagne’, nói về dòng vận hành của tư tưởng, đã
viết: “Bởi Tiếng gọi (tiếng gọi của Đạo Thể, của cội nguồn) từ một nguyên sơ
thăm thẳm, một miền cố quận (Quê hương ban đầu mà ta đã phân ly) được hoàn trả
lại cho chúng ta” (Par l’appel en une loitaine Origine, une Terre natale nous
est rendue). Rõ ràng nhất là lời của Tôn sư Eckhart: “Thượng Đế chu lưu không
biến tính suốt mọi đổi thay (của cõi thế) và tự kết thúc (tự hoàn thành, từ hồi
phục) trong đơn nhất tính thể” (Dieu parcourt sans altération tout changement
et se clot en unité d’essence). Xin mượn lời thơ để nói về sự việc chuyển về
tương lai của cội nguồn:
-Tôi viết tờ thư
Hỏi Trời :
-Thuở trước, cha mẹ sinh ra
Đàn ông hay vốn đàn bà?
Trời rằng:
“Ta tự sinh ta
Thuở mù mịt chẳng có bà, có ông
Chẳng có vợ, chẳng có chồng
Hữu Vô vốn một, Có Không vốn đồng
Cõi Vô thỉ, ấy gốc nguồn
Cõi Vô Chung, ấy chốn cuối cùng của
ta.
NT&TMX (Sao Mắt).
Nguyễn Du, do cảm ứng điều nầy, đã
phóng tác “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài nhân rồi đặt tên cho tác phẩm
của mình là “Đoạn trường tân thanh” (xin không nói nơi đây vì rất dài dòng).
“Đạo Ông Bà” của chúng ta cũng nằm
trong ý đó. Ta nên để ý hai từ thuần Việt ‘Ông’ và ‘Bà’. Hai từ nầy chỉ hai
giới tính nam và nữ, theo Đạo học là hai yếu tố dương và âm, cặp lưỡng nhất đã
kết hợp nhau qua thời gian , sinh thành vạn hữu tức vũ trụ hiện tượng. Vậy, với
hai từ ‘Ông và Bà’, Đạo Ông Bà của chúng ta đã nói đến cái cội nguồn phát sinh
vạn hữu, trong đó có con người. Niềm hướng vọng về cội nguồn đã hàm chứa nơi
hai từ nầy. Vọng về cội nguồn không phải để sống với quá khứ mà chính là để
hướng đến tương lai, để soạn sửa, dựng xây tương lai ngay từ hiện tại nầy (xem
dưới). Không nhìn ra “sự chuyển dịch của cội nguồn về tương lai”, ta sẽ khó
lòng nhìn ra cùng dự đoán dòng diễn biến tiến hóa của nhân sinh qua từng giai
kỳ lịch sử cũng như không thấy được ý nghĩa cùng cứu cánh của tiến hóa, của
cuộc sống, cuộc đời. Chẳng hạn, cái gì sẽ xảy ra sau cuộc chiến của Hoa Kỳ tấn
công Iraq? Hoặc Hoa Kỳ càng thêm điều kiện đẩy mạnh hơn nữa mộng đồ làm chủ thế
giới hoặc Hoa Kỳ sẽ trở thành người bạn thật sự của toàn thế giới? Hoặc Hoa Kỳ
phải lụn bại vì không thể thắng dược Iraq trong một cuộc chiến trường kỳ; và
những hệ quả sẽ xảy ra cho toàn thế giới trong những trường hợp trên như thế
nào? (xin không nói rộng thêm).
Vậy, “Đạo Ông Bà” nói lên hướng vọng
về nguồn cùng ý hướng hướng về tương lai của dân tộc ta. ‘Hướng vọng về nguồn’
là điều triết học Tây phương từ lâu đã nói, đấy là “nỗi hoài hương hằng thể”
(la nostalgie de l’Être), là sự “quy hồi cố quận” (le retour au sol natal) trên
nẻo đường tương lai.
4) Đạo Ông Bà còn nói lên cách đối
xử giữa người và người với nhau trong hiện tại và về sau. Ta chú ý hai từ thuần
việt ‘Ông’ và ‘Bà’. Trong cuộc sống hằng ngày, gặp ai, nói với ai, viết thư cho
ai, ta thường bảo: ‘thưa ông, thưa bà’, ngoại trừ giữa gia đình và lúc căn cứ
trên niên kỷ thấp cao và thứ bậc trong dòng họ mà ta dùng những đại danh xưng
khác trong lúc xưng hô: cha, mẹ, ông bà nội ngoại, cụ, bác, chú, dượng, dì,
thím, cô, cậu, anh, chị, con, em... hoặc căn cứ vào chức vụ, cấp bực: Tổng
thống, Thủ tướng, Bộ Trưởng, Giám Đốc, Thiếu tướng, Đại Úy, Bác sĩ, Kỹ sư, Tiến
sĩ, Luật sư,... Nhưng dù gọi với bất cứ danh xưng nào thì cũng là ‘Ông’ và ‘Bà’
tùy theo đối tượng thuộc giới tính nào. Vậy, hai từ ‘Ông, Bà’ nói lên mối tương
hệ, tương giao giữa mọi người trong cuộc sống bình thường của xã hội trong tất
cả mọi bình diện sinh hoạt. Giữ mối tương giao đó êm đẹp thì cuộc sống chung
của cộng đồng diễn ra vui vẻ, bằng an. Nhất là trong gia đình, dòng họ, giữ
được mối tương giao đó hòa thuận, thân ái, gắn bó trong tình thương yêu, đùm
bọc cho nhau thì Tổ Tiên, Ông Bà còn sống hay đã qua đời sẽ rất vui lòng, sung
sướng. Do đó, “Đạo Ông Bà” không chỉ nói đến đạo Hiếu mà còn nói đến đạo Thảo
giữa mọi phần tử trong gia đình dòng họ mà còn cả cách cư xử giữa mọi người để
cuộc sống chung của cộng đồng luôn hài hòa, êm đẹp. Vì thế, Đạo Ông Bà không
chỉ là tín ngưỡng nơi tấm lòng đối với Ông Bà, Cha Mẹ mà còn là điều phải thực
hiện ngay trong cuộc sống xã hội nhân quần.
Với những tính chất trên: tín ngưỡng
không tôn giáo; liên tục lịch sử giữa các thế hệ; hướng vọng về nguồn để dựng
xây tương lai; thực hiện ngay trong hiện tại mối tương giao thuận hảo giữa người
và người, ta có thể nói “Đạo Ông Bà” chính là “Đạo Sống” vừa tâm linh vừa thực
tiễn của con người bất kỳ nơi đâu, thời nào, lúc nào, chung cho cả nhân loại.
Về mặt tri thức luận, ta có thể xem Đạo Ông Bà là một thứ Siêu Thuyết
(métathéorie) của dân tộc ta. “Siêu thuyết”, hiểu theo nghĩa toán học như định
nghĩa trong Grand Larousse universel: ‘Siêu thuyết của một lý thuyết diễn dịch
nghiên cứu những ý niệm không mâu thuẫn, tự thân túc lý và độc lập của những
công lý’ [La métathéorie d’une théorie déductive étudie notamment les concepts
de non contradiction, de complétude et d’indépendance des axiomes - Axiome=công
lý, theo nghĩa triết học là’ chân lý không thể chứng minh nhưng hiển nhiên đối
với ai hiểu được ý nghĩa chân lý đó’ hoặc ‘mệnh đề được nhìn nhận bởi tất cả
mọi ngườĩ không cần bàn cãi’ (vérité indémontrable mais évidente par quiconque
en comprend le sens - proposition admise par tout le monde sans discussion
-theo Dictionnaire ‘Le Petit Robert’ và Dictionnaire Hachette). Từ một Công lý,
người ta suy diễn ra những mệnh đề khác gọi là ‘định lý’ (théorèmes) trong toán
học]. Với 4 tính chất kể trên, ta thấy “Đạo Ông Bà” của dân tộc chúng ta là
‘hiển nhiên’, tự thân không mâu thuẫn và cũng không mâu thuẫn với một hệ thống
lý thuyết hay chân lý nào khác, tự thân túc lý (tự thân trọn vẹn ý nghĩa), và
độc lập có nghĩa không phải suy luận từ một định đề (postulat) hay định lý nào
khác.
Trên đây là những góp ý để chứng
minh tinh hoa truyền thống văn hóa dân tộc chúng ta không chỉ của riêng chúng
ta mà bao hàm cả tinh hoa truyền thông văn hóa nhân loại, ứng dụng cho toàn
nhân loại suốt mọi thời đại. Rất mong bạn đọc và các bậc thức giả cao minh chỉ
giáo cho những điểm người viết còn thiếu sót hoặc có tính cách ‘cường điệu’.
Grenoble, 23/03/2003
Nguyễn Thùy