Ánh
sáng chuyển vận rất chậm tại Đại Học Harvard. Lý do là vì Giáo Sư Lene
Vestergaard Hau, nhà vật lý học Đan Mạch, đã thực hiện được một điều mà chính
Einstein cũng khó có thể nghĩ đến: bà đã chế ngự được ánh sáng. Chìa khóa giúp
bà thực hiện được việc đó là nghĩ ra cách làm siêu nguội (super-cool) các
nguyên tử khiến chúng hành động như thể chỉ còn là một nguyên tử đơn nhất, cô
đọng và như mây (nebulous). Với một số tia lasers thích hợp để xử lý các nguyên
tử nátri (sodium atoms, có trong muối ăn), giáo sư Hau đã có thể làm nguội các
nguyên tử này xuống chỉ còn mấy phần tỷ của một độ trên số không tuyệt đối, nhờ
thế tạo ra được một đám mây vật chất lạnh nhất trong vũ trụ. Đám mây này có khả
năng khuất phục và thậm chí giam hãm ánh sáng. Nhờ thế, khi giáo sư Hau cho một
làn ánh sáng chuyển động với vận tốc 186,000 dặm một giây vào đám mây này, bà
đã có thể từ từ làm chậm vận tốc của tia sáng này xuống 38 dặm một giờ, rồi 15
dặm một giờ và cuối cùng nay chỉ còn là 1 dặm một giờ. Điều này có nghĩa một em
bé có thể bò nhanh hơn vận tốc của ánh sáng. Hiện nay, Giáo Sư Hau đã cải tiến
kỹ thuật của bà đến có thể giam ánh sáng vô hạn định trong đám mây nguyên tử
của bà. Có thể nói: trong phòng thí nghiệm của bà, áng sáng với vận tốc gần như
không đo lường được nay bị buộc trở thành trò chơi thông thường của con người.
Đức
Bênêđíctô XVI có thể không biết gì về Giáo Sư Hau và điều chắc chắn là ngài
chưa bao giờ viếng thăm phòng thí nghiệm của bà. Tuy nhiên, đã từ rất lâu, ngài
đã thấy được điều bà sẽ thực hiện. Nói cho ngay, cả sự nghiệp làm thần học gia
và cả 8 năm làm giáo hoàng của ngài đều được đánh dấu bằng cuộc phê phán khôn
nguôi đối với cái bản năng hiện đại muốn co cụm và tự đóng khung chính mình.
Ngài luôn kêu gọi thế giới mở tung cõi lòng mình ra và hướng ra bên ngoài.
Thông
điệp đầu tiên của ngài, Deus Caritas Est, đề cập tới điều căn bản nhất
của cuộc sống; đó là tình yêu, và nhất là, tình yêu Thiên Chúa trong đó ta có
được sự sống. Trong óc tưởng tượng được Thánh Kinh soi sáng của Đức Bênêđíctô,
đặc điểm của tình yêu này không phải chỉ là lấy vào, nhưng là bật khởi hướng ra
bên ngoài. Với một mô tả rõ ràng nhất và sinh động nhất về tình yêu, ngài viết
rằng đối với chúng ta, “tình yêu… là một hành trình, một xuất hành liên tục ra
khỏi cái tôi khép kín chỉ biết nhìn mình, để đi tới việc giải phóng nó qua việc
hiến mình, và do đó tới việc tự tìm ra mình một cách chân chính và tìm thấy
chính Thiên Chúa (số 6). Tình yêu không lấy vào và giữ chặt, mà đúng hơn là
chấp nhận và cho đi. Tình yêu luôn chuyển động.
Giam
hãm ánh sáng
“Cái
tôi khép kín chỉ biết nhìn mình” là dấu ấn dị biệt của một sáng thế sa ngã, một
sáng thế làm chậm, thậm chí, giam hãm ánh sáng sự sống. Một trong những hiện
tượng khác biệt của thời hiện đại là dấu ấn kia đang được đóng lên các cá nhân
và các định chế, lên con người và các dân tộc, lên cả các nền văn hóa và tôn
giáo nữa. Khi quan tâm tới nhiều biểu hiện đa phức của khuynh hướng nhìn vào
trong đầy nguy hiểm này, Đức Bênêđíctô quả là vị giáo hoàng đầu tiên của thời
hiện đại đã dùng viễn kiến và thừa tác vụ của mình ngay từ đầu vạch ra sự co
quắp hướng vào mình này và công bố lời mời gọi đầy giải thoát của Thiên Chúa
trong Tin Mừng.
Sự
nhất quán trong tư tưởng của ngài về điểm này là điều khá hiển nhiên, chỉ cần
ta lược qua các chủ đề được ngài bàn đến. Về kinh tế, viễn kiến nền tảng của
ngài là: nó phải có tính vô vị lợi (gratuitousness) nếu muốn điều hành một cách
lành mạnh và phù hợp với sự triển nở của cá nhân cũng như của xã hội nói chung.
Nền kinh tế nào chỉ khép kín vào chỗ tối đa hóa tư bản và lợi nhuận sẽ trở
thành dụng cụ cho chính sách hạ nhân phẩm. Nền kinh tế nào không chấp nhận tính
đa phức của quyền lợi công cộng trên thị trường sẽ mau chóng tách mình ra khỏi
bất cứ lắng lo nào đối với ích chung, ra khỏi bất cứ giá trị nào cho phép con
người và các dân tộc được liên hệ tốt đẹp với nhau qua các tương tác thương
mại. Mọi nền công lý, và nhất là nền công lý kinh tế, đều đòi có bác ái (xem Caritas
in Veritate).
Đức
Bênêđíctô quan niệm văn hóa cũng tương tự như thế. Đối với ngài, văn hóa phát
sinh phù hợp với định nghĩa căn bản về con người nhân bản, một con người chỉ là
người bao lâu biết cởi mở với người khác, và cuối cùng cởi mở với Thiên Chúa.
Cũng thế, văn hóa chỉ là văn hóa chân thực, một văn hóa lành mạnh, một văn hóa
nhân bản, bao lâu nó cởi mở đón nhận những gì khác biệt với chính nó. Văn hóa
trong toàn bộ bao giờ cũng hướng về tương tác và thông đạt, chứ không hướng về
cô lập và chỉ lo bảo tồn chính mình. Như ngài từng viết: “Bất cứ yếu tố nào
trong bất cứ nền văn hóa nào nếu loại bỏ sự cởi mở ấy và sự trao đổi văn hóa ấy
cũng tượng trưng cho sự bất thoả đáng trong một nền văn hóa, vì loại bỏ điều
khác biệt là trái với bản nhiên con người” (Truth and Tolerance, 60).
Như thế, văn hóa không tự bẻ cong hướng vào bên trong và loại bỏ thể dị biệt,
đúng hơn, nó phải tìm cách tự phát biểu ra bên ngoài và chân thực tìm cách gặp
gỡ điều khác với mình.
Cùng
một tính lưỡng phân trên giữa khép kín và cởi mở đã lên khuôn đường hướng của
Đức Bênêđíctô trong quan điểm của ngài về lý trí. Hệ thống tư tưởng, hay triết
lý nào tự ấn định định mức và tiêu chuẩn riêng để chứng nghiệm sẽ trở thành
khép kín đối với chân lý mà mình tự cho là tìm kiếm. Lịch sử triết học là lịch
sử của hết những chắc mẩm tự xác định này tới những chắc mẩm tự xác định khác,
trong mưu toan đem lại cho mọi sự vật câu định nghĩa dứt khoát do chính mình
đưa ra. Muốn phá sập cái thói quen đầy kiêu hãnh ấy nơi tâm trí con người, cách
duy nhất là cởi mở đối với những gì phát xuất từ bên ngoài chính họ: tức mạc
khải. Chỉ những gì nhận được từ đức tin, trước khi tưởng nghĩ hay hiểu biết,
mới giải thoát nhân loại khỏi cơn ghiền giải thích sự sống theo các hạn từ của
riêng mình. Đức tin là sự cởi mở, trong tín thác, đối với điều, hay đối với Đấng,
phát xuất từ bên ngoài và mở tung được cái vô nghĩa đóng kín của nhân loại chỉ
biết loay hoay với các khí cụ riêng. Đối với Đức Bênêđíctô, lý trí phải mở cửa
đón nhận đức tin, và đức tin phải phục vụ lý trí bằng cách hướng dẫn và chỉnh
sửa nó (Introduction to Christianity và Faith and the Future).
Bản
năng hiện đại
Đặc
điểm nổi bật của thời hiện đại là khuynh hướng không muốn để ánh sáng xuyên qua
các hạn từ của mình. Thời hiện đại ghét sự trong sáng. Nó bị thúc đẩy bởi khát
vọng muốn chiếm đoạt mọi sự cho chính mình, bất chấp là lợi nhuận, là tự đưa
mình lên hay ưu thế. Ánh sáng không phải là điều đáng kể đối với thời hiện đại;
đúng hơn, người đáng kể là người có thể thấy ánh sáng, phán xử ánh sáng, cướp
lấy ánh sáng và nắm giữ ánh sáng. Đó chính là cái nền xây nên “nền độc tài của
chủ nghĩa duy tương đối”, trong đó các sự thật cá thể huênh hoang đòi trở thành
sự thật phổ quát. Con người, định chế và triết lý hiện đại không bao giờ tìm
cách tăng tốc hay trải rộng ánh sáng đang di chuyển. Nó luôn tìm cách làm ánh
sáng chậm lại để phù hợp với cung cách tính toán của họ.
Đối
với Đức Bênêđíctô, sự thánh thiện luôn để mình tự hội nhập vào sự sống tăng tốc
của Thiên Chúa. Các thánh luôn cho thấy ánh sáng trong chính bản chất của nó,
chứ không theo cách họ muốn. Trong cái tính cá biệt hết sức cao độ của họ, các
thánh để ánh sáng Thiên Chúa chiếu dõi qua các ngài và như thế các ngài trở
thành “cảnh tượng” (spectacle) để thiên hạ ngắm nhìn. Như chính lời Đức
Bênêđíctô từng viết: “Thần Khí Thiên Chúa đã ban sự sống đầy trí tưởng tượng
tuyệt vời cho rất nhiều thánh nhân nam nữ, thuộc mọi thời đại và mọi điều kiện
xã hội, thuộc mọi ngôn ngữ, dân tộc và văn hoá” (Holiness is Always in
Season). Những con người thánh thiện này không đòi ánh sáng cho riêng mình,
cũng không tìm cách làm nó chậm lại. Thay vào đó, các ngài tự quên mình, để ánh
sáng tự do chói lọi qua cuộc sống của mình.
Cái
nhìn trên về sự thánh thiện khiến người ta nhớ lại một câu truyện đã được thuật
trên tờ Notre Dame Vision nhiều năm trước đây. Đây là một câu truyện
người ta tin là có thật, nhưng diễn trình kể đi kể lại khiến nguyên lai của nó
mỗi ngày một không chắc chắn hơn. Câu truyện đó như sau: một bé gái ngồi cạnh
cha trong một nhà thờ để tham dự Thánh Lễ buổi sáng Chúa Nhật. Ánh sáng ban mai
rực rỡ chiếu qua các khung cửa sổ kính mầu ở phía đông nhà thờ, vẽ lên cộng
đoàn những mầu sắc thật đẹp. Bé gái vừa nhìn kính mầu vừa vỗ vai cha và hỏi:
“Ba ơi, những vị trong khung cửa sổ kia là ai vậy?” Cha em trả lời: “À, cưng ạ,
họ là các vị thánh”. Nói rồi, cha em đợi một lúc lâu xem em có hỏi gì thêm như
thói quen không. Nhưng không, em không hỏi gì thêm nữa. Tuy nhiên, sau đó,
trong lớp giáo lý, cô giáo hỏi cả lớp xem có ai biết các thánh là ai không. Thì
bé gái dơ tay ngay, trả lời như “đinh đóng cột”: “các thánh là những vị để ánh
sáng chiếu qua”.
Cổng
ơn thánh
Đây
là điều Đức Bênêđíctô cố gắng dạy ta trong suốt 8 năm qua và cả nhiều thập niên
trước đó. Ta sẽ không phải là người như đã được dựng nên nếu ta không chịu mở
lòng mình ra, liều mình trở thành các cổng của ơn thánh và trí tưởng tượng và
hướng ra ngoài gặp gỡ người khác. Chính vì thế, ngài đã cảnh báo ta chống lại
những nền phụng vụ tự tạo ra những vòng tròn luẩn quẩn của tự phản ảnh và tự
khen mình. Ngài thách thức ta cùng hướng về Oriens (Phương Đông) để thấy
Thiên Chúa đang đến (Spirit of the Liturgy). Đó là lý do khiến ngài
không ngừng mời gọi ta bước vào hiệp thông với nhau dựa trên chính Kinh Lạy Cha
của Chúa, một kinh phá sập mọi rào cản cô lập để mau mắn tự hiến. Như chính
ngài đã viết trong cuốn sách cuối cùng của ngài: “chữ chúng con (trong Kinh Lạy
Cha) thực ra hết sức đòi hỏi: nó đòi ta phải bước ra ngoài cái vòng khép kín
của ‘cái tôi’. Nó đòi ta phải từ bỏ mình để hiệp thông với mọi con cái của Thiên
Chúa” (Jesus of Nazareth, 141). Những lời này nói tới sự tín thác đối
với căn tính ta đã được ban cho, chứ không phải căn tính ta muốn cho chính ta,
như một thứ tư hữu của riêng mình. Tiến bộ và đổi mới không phải là thước đo
căn tính này; chỉ có tình yêu mới là thước đo đó.
Như
Tim O’Malley có lần nhận định, đây cũng là cách tốt nhất để hiểu quyết định từ
nhiệm từng gây ngạc nhiên của Đức Bênêđíctô. Đức Thánh Cha chỉ trao lại điều
chưa bao giờ ngài cho là của mình: ngài để ánh sáng chiếu qua mình dù điều này
có nghĩa là ngài sẽ khuất dạng khỏi con mắt quần chúng. Lời lẽ của Đức Thánh
Cha trong buổi đọc kinh Truyền Tin vào Chúa Nhật 17 tháng Hai vừa qua cho thấy
rõ điều đó: “Trong những giây phút có tính quyết định của đời người, hay, nếu
quan sát kỹ, trong mọi giây phút của đời người, ta đều đang đứng ở ngã tư: ta
muốn theo ‘cái tôi’ hay theo Chúa? Theo quyền lợi cá nhân hay theo sự thiện
chân thực, đúng là sự thiện chân thực?”. Trong sự nghiệp thầy dạy Đức Tin, ngài
luôn cố gắng thuyết phục người khác đưa ra câu trả lời. Trong hành vi cuối cùng
của đời giáo hoàng, một lần nữa ngài đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi ấy.
C.S.
Lewis có lần viết rằng “Vinh Quang chiếu vào mọi người, và từ mọi người phản
chiếu lại: giống như ánh sáng và gương soi. Nhưng ánh sáng mới là sự vật” (Great
Divorce). Việc ánh sáng chiếu rọi mới là bận tâm duy nhất trong thừa tác vụ
của Đức Bênêđíctô. Ngài tiếp tục thách thức thế giới tránh đừng để mình bị tính
tự mãn của riêng mình phủ mây, trở thành nguội lạnh trong chính cái nhẫn tâm và
quá tự tin của mình. Kinh tế là để chia sẻ hàng hóa, văn hóa là để trao
đổi hồng phúc và lý trí là để tiếp nhận và lượng giá điều đức tin
ban cho. Phụng vụ qui chiếu ta về Thiên Chúa Đấng đến với ta, trong khi cầu
nguyện kéo ta ra ngoài chính ta.
Điều
diễn ra trong các phòng thí nghiệm là nhằm phục vụ con người, mà con người thì
phục vụ Thiên Chúa, chứ không phục vụ con người như thể họ là Thiên Chúa. Nếu
vị giáo sư của Harvard có thể làm chậm, thậm chí, giam hãm được ánh sáng bằng
cách sử dụng tia laser và muối ăn, thì điều này hẳn cũng có thể được dùng cho
sự thiện thực là sự thiện. Nhưng ánh sáng thực của đời người thì không bao giờ
ta có thể làm chậm lại hay giam hãm nó. Cố gắng làm thế là tự mâu thuẫn với
chính mình. Tự đặt mình, thậm chí tự đặt cả thế giới, lên trên sức mạnh của ánh
sáng này cũng vẫn không ngăn cản người khác nhìn thấy nó. Ánh sáng này phải
chiếu rọi qua ta, vì ánh sáng này là điều Đức Bênêđíctô tin có sức cứu vớt thế
giới.
“Tình
yêu là ánh sáng, nói cho cùng, là ánh sáng duy nhất, luôn có khả năng chiếu
sáng một thế giới đang tối dần và đem lại cho ta lòng can đảm để ta tiếp tục
sống và làm việc. Tình yêu là điều có thể, và ta có khả năng thực hành nó vì ta
vốn được dựng nên giống hình ảnh Chúa. Cảm nghiệm tình yêu và nhờ thế, giúp ánh
sáng Thiên Chúa chiếu vào trần gian, đó là lời mời gọi tôi muốn ngỏ cùng anh
chị em” (Deus Caritas Est).
Theo
Leonard De Lorenzo, giám đốc ơn gọi tại Đại Học Notre Dame, Hoa Kỳ.
Vũ Văn An (vietcatholic.org)