Thứ Ba, 21 tháng 5, 2013

ĐỨC Bênêđíctô XVI VÀ VẬN TỐC ÁNH SÁNG


            Ánh sáng chuyển vận rất chậm tại Đại Học Harvard. Lý do là vì Giáo Sư Lene Vestergaard Hau, nhà vật lý học Đan Mạch, đã thực hiện được một điều mà chính Einstein cũng khó có thể nghĩ đến: bà đã chế ngự được ánh sáng. Chìa khóa giúp bà thực hiện được việc đó là nghĩ ra cách làm siêu nguội (super-cool) các nguyên tử khiến chúng hành động như thể chỉ còn là một nguyên tử đơn nhất, cô đọng và như mây (nebulous). Với một số tia lasers thích hợp để xử lý các nguyên tử nátri (sodium atoms, có trong muối ăn), giáo sư Hau đã có thể làm nguội các nguyên tử này xuống chỉ còn mấy phần tỷ của một độ trên số không tuyệt đối, nhờ thế tạo ra được một đám mây vật chất lạnh nhất trong vũ trụ. Đám mây này có khả năng khuất phục và thậm chí giam hãm ánh sáng. Nhờ thế, khi giáo sư Hau cho một làn ánh sáng chuyển động với vận tốc 186,000 dặm một giây vào đám mây này, bà đã có thể từ từ làm chậm vận tốc của tia sáng này xuống 38 dặm một giờ, rồi 15 dặm một giờ và cuối cùng nay chỉ còn là 1 dặm một giờ. Điều này có nghĩa một em bé có thể bò nhanh hơn vận tốc của ánh sáng. Hiện nay, Giáo Sư Hau đã cải tiến kỹ thuật của bà đến có thể giam ánh sáng vô hạn định trong đám mây nguyên tử của bà. Có thể nói: trong phòng thí nghiệm của bà, áng sáng với vận tốc gần như không đo lường được nay bị buộc trở thành trò chơi thông thường của con người.
              Đức Bênêđíctô XVI có thể không biết gì về Giáo Sư Hau và điều chắc chắn là ngài chưa bao giờ viếng thăm phòng thí nghiệm của bà. Tuy nhiên, đã từ rất lâu, ngài đã thấy được điều bà sẽ thực hiện. Nói cho ngay, cả sự nghiệp làm thần học gia và cả 8 năm làm giáo hoàng của ngài đều được đánh dấu bằng cuộc phê phán khôn nguôi đối với cái bản năng hiện đại muốn co cụm và tự đóng khung chính mình. Ngài luôn kêu gọi thế giới mở tung cõi lòng mình ra và hướng ra bên ngoài.
             Thông điệp đầu tiên của ngài, Deus Caritas Est, đề cập tới điều căn bản nhất của cuộc sống; đó là tình yêu, và nhất là, tình yêu Thiên Chúa trong đó ta có được sự sống. Trong óc tưởng tượng được Thánh Kinh soi sáng của Đức Bênêđíctô, đặc điểm của tình yêu này không phải chỉ là lấy vào, nhưng là bật khởi hướng ra bên ngoài. Với một mô tả rõ ràng nhất và sinh động nhất về tình yêu, ngài viết rằng đối với chúng ta, “tình yêu… là một hành trình, một xuất hành liên tục ra khỏi cái tôi khép kín chỉ biết nhìn mình, để đi tới việc giải phóng nó qua việc hiến mình, và do đó tới việc tự tìm ra mình một cách chân chính và tìm thấy chính Thiên Chúa (số 6). Tình yêu không lấy vào và giữ chặt, mà đúng hơn là chấp nhận và cho đi. Tình yêu luôn chuyển động.
                 Giam hãm ánh sáng
        “Cái tôi khép kín chỉ biết nhìn mình” là dấu ấn dị biệt của một sáng thế sa ngã, một sáng thế làm chậm, thậm chí, giam hãm ánh sáng sự sống. Một trong những hiện tượng khác biệt của thời hiện đại là dấu ấn kia đang được đóng lên các cá nhân và các định chế, lên con người và các dân tộc, lên cả các nền văn hóa và tôn giáo nữa. Khi quan tâm tới nhiều biểu hiện đa phức của khuynh hướng nhìn vào trong đầy nguy hiểm này, Đức Bênêđíctô quả là vị giáo hoàng đầu tiên của thời hiện đại đã dùng viễn kiến và thừa tác vụ của mình ngay từ đầu vạch ra sự co quắp hướng vào mình này và công bố lời mời gọi đầy giải thoát của Thiên Chúa trong Tin Mừng.
         Sự nhất quán trong tư tưởng của ngài về điểm này là điều khá hiển nhiên, chỉ cần ta lược qua các chủ đề được ngài bàn đến. Về kinh tế, viễn kiến nền tảng của ngài là: nó phải có tính vô vị lợi (gratuitousness) nếu muốn điều hành một cách lành mạnh và phù hợp với sự triển nở của cá nhân cũng như của xã hội nói chung. Nền kinh tế nào chỉ khép kín vào chỗ tối đa hóa tư bản và lợi nhuận sẽ trở thành dụng cụ cho chính sách hạ nhân phẩm. Nền kinh tế nào không chấp nhận tính đa phức của quyền lợi công cộng trên thị trường sẽ mau chóng tách mình ra khỏi bất cứ lắng lo nào đối với ích chung, ra khỏi bất cứ giá trị nào cho phép con người và các dân tộc được liên hệ tốt đẹp với nhau qua các tương tác thương mại. Mọi nền công lý, và nhất là nền công lý kinh tế, đều đòi có bác ái (xem Caritas in Veritate).
        Đức Bênêđíctô quan niệm văn hóa cũng tương tự như thế. Đối với ngài, văn hóa phát sinh phù hợp với định nghĩa căn bản về con người nhân bản, một con người chỉ là người bao lâu biết cởi mở với người khác, và cuối cùng cởi mở với Thiên Chúa. Cũng thế, văn hóa chỉ là văn hóa chân thực, một văn hóa lành mạnh, một văn hóa nhân bản, bao lâu nó cởi mở đón nhận những gì khác biệt với chính nó. Văn hóa trong toàn bộ bao giờ cũng hướng về tương tác và thông đạt, chứ không hướng về cô lập và chỉ lo bảo tồn chính mình. Như ngài từng viết: “Bất cứ yếu tố nào trong bất cứ nền văn hóa nào nếu loại bỏ sự cởi mở ấy và sự trao đổi văn hóa ấy cũng tượng trưng cho sự bất thoả đáng trong một nền văn hóa, vì loại bỏ điều khác biệt là trái với bản nhiên con người” (Truth and Tolerance, 60). Như thế, văn hóa không tự bẻ cong hướng vào bên trong và loại bỏ thể dị biệt, đúng hơn, nó phải tìm cách tự phát biểu ra bên ngoài và chân thực tìm cách gặp gỡ điều khác với mình.
          Cùng một tính lưỡng phân trên giữa khép kín và cởi mở đã lên khuôn đường hướng của Đức Bênêđíctô trong quan điểm của ngài về lý trí. Hệ thống tư tưởng, hay triết lý nào tự ấn định định mức và tiêu chuẩn riêng để chứng nghiệm sẽ trở thành khép kín đối với chân lý mà mình tự cho là tìm kiếm. Lịch sử triết học là lịch sử của hết những chắc mẩm tự xác định này tới những chắc mẩm tự xác định khác, trong mưu toan đem lại cho mọi sự vật câu định nghĩa dứt khoát do chính mình đưa ra. Muốn phá sập cái thói quen đầy kiêu hãnh ấy nơi tâm trí con người, cách duy nhất là cởi mở đối với những gì phát xuất từ bên ngoài chính họ: tức mạc khải. Chỉ những gì nhận được từ đức tin, trước khi tưởng nghĩ hay hiểu biết, mới giải thoát nhân loại khỏi cơn ghiền giải thích sự sống theo các hạn từ của riêng mình. Đức tin là sự cởi mở, trong tín thác, đối với điều, hay đối với Đấng, phát xuất từ bên ngoài và mở tung được cái vô nghĩa đóng kín của nhân loại chỉ biết loay hoay với các khí cụ riêng. Đối với Đức Bênêđíctô, lý trí phải mở cửa đón nhận đức tin, và đức tin phải phục vụ lý trí bằng cách hướng dẫn và chỉnh sửa nó (Introduction to Christianity Faith and the Future).
                       Bản năng hiện đại
            Đặc điểm nổi bật của thời hiện đại là khuynh hướng không muốn để ánh sáng xuyên qua các hạn từ của mình. Thời hiện đại ghét sự trong sáng. Nó bị thúc đẩy bởi khát vọng muốn chiếm đoạt mọi sự cho chính mình, bất chấp là lợi nhuận, là tự đưa mình lên hay ưu thế. Ánh sáng không phải là điều đáng kể đối với thời hiện đại; đúng hơn, người đáng kể là người có thể thấy ánh sáng, phán xử ánh sáng, cướp lấy ánh sáng và nắm giữ ánh sáng. Đó chính là cái nền xây nên “nền độc tài của chủ nghĩa duy tương đối”, trong đó các sự thật cá thể huênh hoang đòi trở thành sự thật phổ quát. Con người, định chế và triết lý hiện đại không bao giờ tìm cách tăng tốc hay trải rộng ánh sáng đang di chuyển. Nó luôn tìm cách làm ánh sáng chậm lại để phù hợp với cung cách tính toán của họ.
          Đối với Đức Bênêđíctô, sự thánh thiện luôn để mình tự hội nhập vào sự sống tăng tốc của Thiên Chúa. Các thánh luôn cho thấy ánh sáng trong chính bản chất của nó, chứ không theo cách họ muốn. Trong cái tính cá biệt hết sức cao độ của họ, các thánh để ánh sáng Thiên Chúa chiếu dõi qua các ngài và như thế các ngài trở thành “cảnh tượng” (spectacle) để thiên hạ ngắm nhìn. Như chính lời Đức Bênêđíctô từng viết: “Thần Khí Thiên Chúa đã ban sự sống đầy trí tưởng tượng tuyệt vời cho rất nhiều thánh nhân nam nữ, thuộc mọi thời đại và mọi điều kiện xã hội, thuộc mọi ngôn ngữ, dân tộc và văn hoá” (Holiness is Always in Season). Những con người thánh thiện này không đòi ánh sáng cho riêng mình, cũng không tìm cách làm nó chậm lại. Thay vào đó, các ngài tự quên mình, để ánh sáng tự do chói lọi qua cuộc sống của mình.
              Cái nhìn trên về sự thánh thiện khiến người ta nhớ lại một câu truyện đã được thuật trên tờ Notre Dame Vision nhiều năm trước đây. Đây là một câu truyện người ta tin là có thật, nhưng diễn trình kể đi kể lại khiến nguyên lai của nó mỗi ngày một không chắc chắn hơn. Câu truyện đó như sau: một bé gái ngồi cạnh cha trong một nhà thờ để tham dự Thánh Lễ buổi sáng Chúa Nhật. Ánh sáng ban mai rực rỡ chiếu qua các khung cửa sổ kính mầu ở phía đông nhà thờ, vẽ lên cộng đoàn những mầu sắc thật đẹp. Bé gái vừa nhìn kính mầu vừa vỗ vai cha và hỏi: “Ba ơi, những vị trong khung cửa sổ kia là ai vậy?” Cha em trả lời: “À, cưng ạ, họ là các vị thánh”. Nói rồi, cha em đợi một lúc lâu xem em có hỏi gì thêm như thói quen không. Nhưng không, em không hỏi gì thêm nữa. Tuy nhiên, sau đó, trong lớp giáo lý, cô giáo hỏi cả lớp xem có ai biết các thánh là ai không. Thì bé gái dơ tay ngay, trả lời như “đinh đóng cột”: “các thánh là những vị để ánh sáng chiếu qua”.
                     Cổng ơn thánh
             Đây là điều Đức Bênêđíctô cố gắng dạy ta trong suốt 8 năm qua và cả nhiều thập niên trước đó. Ta sẽ không phải là người như đã được dựng nên nếu ta không chịu mở lòng mình ra, liều mình trở thành các cổng của ơn thánh và trí tưởng tượng và hướng ra ngoài gặp gỡ người khác. Chính vì thế, ngài đã cảnh báo ta chống lại những nền phụng vụ tự tạo ra những vòng tròn luẩn quẩn của tự phản ảnh và tự khen mình. Ngài thách thức ta cùng hướng về Oriens (Phương Đông) để thấy Thiên Chúa đang đến (Spirit of the Liturgy). Đó là lý do khiến ngài không ngừng mời gọi ta bước vào hiệp thông với nhau dựa trên chính Kinh Lạy Cha của Chúa, một kinh phá sập mọi rào cản cô lập để mau mắn tự hiến. Như chính ngài đã viết trong cuốn sách cuối cùng của ngài: “chữ chúng con (trong Kinh Lạy Cha) thực ra hết sức đòi hỏi: nó đòi ta phải bước ra ngoài cái vòng khép kín của ‘cái tôi’. Nó đòi ta phải từ bỏ mình để hiệp thông với mọi con cái của Thiên Chúa” (Jesus of Nazareth, 141). Những lời này nói tới sự tín thác đối với căn tính ta đã được ban cho, chứ không phải căn tính ta muốn cho chính ta, như một thứ tư hữu của riêng mình. Tiến bộ và đổi mới không phải là thước đo căn tính này; chỉ có tình yêu mới là thước đo đó.
           Như Tim O’Malley có lần nhận định, đây cũng là cách tốt nhất để hiểu quyết định từ nhiệm từng gây ngạc nhiên của Đức Bênêđíctô. Đức Thánh Cha chỉ trao lại điều chưa bao giờ ngài cho là của mình: ngài để ánh sáng chiếu qua mình dù điều này có nghĩa là ngài sẽ khuất dạng khỏi con mắt quần chúng. Lời lẽ của Đức Thánh Cha trong buổi đọc kinh Truyền Tin vào Chúa Nhật 17 tháng Hai vừa qua cho thấy rõ điều đó: “Trong những giây phút có tính quyết định của đời người, hay, nếu quan sát kỹ, trong mọi giây phút của đời người, ta đều đang đứng ở ngã tư: ta muốn theo ‘cái tôi’ hay theo Chúa? Theo quyền lợi cá nhân hay theo sự thiện chân thực, đúng là sự thiện chân thực?”. Trong sự nghiệp thầy dạy Đức Tin, ngài luôn cố gắng thuyết phục người khác đưa ra câu trả lời. Trong hành vi cuối cùng của đời giáo hoàng, một lần nữa ngài đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi ấy.
           C.S. Lewis có lần viết rằng “Vinh Quang chiếu vào mọi người, và từ mọi người phản chiếu lại: giống như ánh sáng và gương soi. Nhưng ánh sáng mới là sự vật” (Great Divorce). Việc ánh sáng chiếu rọi mới là bận tâm duy nhất trong thừa tác vụ của Đức Bênêđíctô. Ngài tiếp tục thách thức thế giới tránh đừng để mình bị tính tự mãn của riêng mình phủ mây, trở thành nguội lạnh trong chính cái nhẫn tâm và quá tự tin của mình. Kinh tế là để chia sẻ hàng hóa, văn hóa là để trao đổi hồng phúc và lý trí là để tiếp nhận và lượng giá điều đức tin ban cho. Phụng vụ qui chiếu ta về Thiên Chúa Đấng đến với ta, trong khi cầu nguyện kéo ta ra ngoài chính ta.
           Điều diễn ra trong các phòng thí nghiệm là nhằm phục vụ con người, mà con người thì phục vụ Thiên Chúa, chứ không phục vụ con người như thể họ là Thiên Chúa. Nếu vị giáo sư của Harvard có thể làm chậm, thậm chí, giam hãm được ánh sáng bằng cách sử dụng tia laser và muối ăn, thì điều này hẳn cũng có thể được dùng cho sự thiện thực là sự thiện. Nhưng ánh sáng thực của đời người thì không bao giờ ta có thể làm chậm lại hay giam hãm nó. Cố gắng làm thế là tự mâu thuẫn với chính mình. Tự đặt mình, thậm chí tự đặt cả thế giới, lên trên sức mạnh của ánh sáng này cũng vẫn không ngăn cản người khác nhìn thấy nó. Ánh sáng này phải chiếu rọi qua ta, vì ánh sáng này là điều Đức Bênêđíctô tin có sức cứu vớt thế giới.
          “Tình yêu là ánh sáng, nói cho cùng, là ánh sáng duy nhất, luôn có khả năng chiếu sáng một thế giới đang tối dần và đem lại cho ta lòng can đảm để ta tiếp tục sống và làm việc. Tình yêu là điều có thể, và ta có khả năng thực hành nó vì ta vốn được dựng nên giống hình ảnh Chúa. Cảm nghiệm tình yêu và nhờ thế, giúp ánh sáng Thiên Chúa chiếu vào trần gian, đó là lời mời gọi tôi muốn ngỏ cùng anh chị em” (Deus Caritas Est).

Theo Leonard De Lorenzo, giám đốc ơn gọi tại Đại Học Notre Dame, Hoa Kỳ.
                                                                Vũ Văn An (vietcatholic.org)

CHÚA GIESU PHỤC SINH CON NHÂN TÍNH ?


          ĐÚNG: Chúa Giêsu là “Ngôi Lời đã trở nên xác phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14), làm người trần gian như chúng ta trừ tội lỗi. Thân thể Đức Giêsu từ khi sống lại tới khi lên trời không khác thân thể trước khi phục sinh, giống như thân thể sống lại của Ladarô. Chúa Giêsu đã bỏ “cơ thể” (hiểu là “vật chứa”) và gồm 100% tinh thần như trước khi Ngài mặc xác phàm. Bây giờ Ngài không có xương, thịt hoặc máu, nhưng hoàn toàn là thần linh, như trước khi Ngài mặc xác phàm. Thân thể Chúa Giêsu phục sinh thế nào thì mai đây thân xác chúng ta cũng như vậy.
         SAI: Ở trên trời, Chúa Giêsu có các phẩm chất trừu tượng của con người và đó là lý do Ngài vẫn được gọi là Con Người. Ngài có “xương thịt tinh thần nhưng không có máu” (spiritual flesh and bones without blood). Thân thể Chúa Giêsu phục sinh thế nào thì mai đây thân xác chúng ta cũng như vậy.
         1. Thánh Phaolô viết: “Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi? Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi?” (1 Cr 15:52). Câu này chứng tỏ rằng Kinh Thánh không dạy sự phục sinh của xác thịt theo nghĩa đen. Người chết sẽ sống lại bất tử, và chúng ta sẽ thay đổi. Chú ý HAI cấp độ liên quan sự phục sinh: Người chết sẽ sống lại thành “thân thể tinh thần” và chúng ta sẽ được biến đổi thành thân xác đó.
        2. Chúng ta không thể phân biệt thân thể Chúa Giêsu phục sinh với thân thể người bình thường. Thân thể Chúa Giêsu phục sinh phải khác vì Ngài “đi xuyên qua vách tường” (x. Ga 20:19 & 26), chính ông Philipphê cũng được Thần Khí chuyển đi xa ngay lập tức (x. Cv 8:36-39). Vấn đề tranh luận là Chúa Giêsu có “thân thể bằng xương thịt mà không có máu” khác với điều này: “Xương thịt và máu không thể thừa hưởng Nước Trời” (1 Cr 15:50). Thân thể phục sinh của Chúa Giêsu giống về bản chất đối với thân thể trước khi phục sinh là điều có thể chấp nhận. Cách diễn tả thân thể Chúa Giêsu trong Kh 1:12-16 khác với thân thể Thánh Gioan trước đó.
        3. Cả trình thuật 1Cr 15 cho chúng ta thấy thân xác không như thân xác hiện nay, nhất là mấy câu này: “Không phải mọi thể xác đều giống nhau: của loài người thì khác, của loài vật thì khác, của loài chim thì khác, của loài cá thì khác. Lại có những vật thể thuộc thiên giới và những vật thể thuộc địa giới. Nhưng vẻ rạng rỡ của những vật thể thuộc thiên giới thì khác, vẻ rạng rỡ của những vật thể thuộc địa giới thì khác. Ánh mặt trời thì khác, ánh mặt trăng thì khác, ánh tinh tú thì khác, bởi vì ánh sáng tinh tú này khác với ánh sáng tinh tú kia. Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí” (1 Cr 15:39-44). “Hạt được gieo” (thân thể hiện nay) tuyệt đối không có gì chung với “cây sẽ lớn lên” (thân thể phục sinh). Sau khi Chúa Giêsu hiện ra với ông Kê-pha, rồi với Nhóm Mười Hai, Người đã “hiện ra với hơn năm trăm anh em một lượt” (x. 1 Cr 15:6). Người trần gian không thể như vậy được. Điều đó chắc chắn Chúa Giêsu phục sinh trở nên hoàn toàn khác.
         4. Đã thấy và đã chạm vào Chúa Giêsu phục sinh, Thánh Gioan cho biết: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3:2). Câu này thuộc lĩnh vực “hầu như không thể bác bỏ” để chứng tỏ rằng Chúa Giêsu đã biến đổi sau khi lên trời và không còn ở dạng có thể nhận ra. Thánh Phaolô cũng nói: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3:21).
         5. Có 118 nguyên tố trong bảng tuần hoàn, kể cả ánh sáng và trọn lực “không được tạo nên” như Thánh Phêrô mô tả: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu huỷ” (2 Pr 3:10). Từ khi vũ trụ vật chất được tiền định sụp đổ hoàn toàn, vật chất nào có thể là thân thể Chúa Giêsu và thân xác ps của chúng ta? Chúa Giêsu hiện hữu trong “dạng” trước sáng thế (thuở hồng hoang), không là 100% của công cuộc sáng tạo này. Sau lần đến thứ nhì, “đất và trời biến mất trước mặt Người, không để lại dấu vết” (x. Kh 20:11).
           6. Khi Chúa Giêsu hiện ra, các Tông Đồ kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma. Nhưng Người nói: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” (Lc 24:37-39). Đoạn Kinh Thánh này chứng tỏ rằng thân thể Chúa Giêsu giống về BẢN CHẤT trước khi Ngài chịu chết. Mới đầu các Tông Đồ tưởng là ma (loại tương tự xương thịt tinh thần được nói ở số 2 trên đây). Chúa Giêsu xác định là “không có gì thay đổi, xương thịt Ngài cũng như trước, chứ ma không có xương thịt như thế”. Nếu thân thể Chúa Giêsu không giống như trước và sau phục sinh, các chứng cớ cũng vô nghĩa! Chắc chắn thân thể phục sinh của Ngài cũng vậy. Đó là điều Chúa Giêsu nói bằng “xương thịt con người”.
           7. Trước và sau phục sinh, không gì khác để nhận biết thân thể Chúa Giêsu. Nếu có gì khác, các Tông Đồ đã không nhận biết và Kinh Thánh cũng không nói cho chúng ta biết. Chắc chắn sự thay đổi như đề cập ở số 2 thì sẽ được đưa ra sự chú ý và chứng cớ nào đó!
         8. Một người sa ngã có thể mãi mãi bị coi là con nuôi của Thiên Chúa qua kinh nghiệm tái sinh dù họ không còn sở hữu thuộc tính của con cái Thiên Chúa, có thể Chúa Giêsu cũng được coi là NGƯỜI qua kinh nghiệm sinh về thể lý là con người, mặc dù hiện nay Chúa Giêsu không có thuộc tính thực sự của nhân tính (even though NOW Jesus possesses none of the actual attributes of humanity).
          Chúa Giêsu được mô tả là Con Người sau khi phục sinh:
– Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một con người, Đức Kitô Giêsu (1 Tm 2:5).
– Đức Giêsu Nadarét, là người đã được Thiên Chúa phái đến với anh em. Và để chứng thực sứ mệnh của Người, Thiên Chúa đã cho Người làm những phép mầu, điềm thiêng và dấu lạ giữa anh em. Chính anh em biết điều đó (Cv 2:22).
– Tại một người mà nhân loại phải chết, thì cũng nhờ một người mà kẻ chết được sống lại (1 Cr 15:21).
– Người đã ấn định một ngày để xét xử thiên hạ theo công lý, nhờ một người mà Người đã chỉ định. Để bảo đảm điều ấy với mọi người, Thiên Chúa đã làm cho vị này sống lại từ cõi chết (Cv 17:31).
        Khi ở Lystra, các Tông Đồ Barnaba và Phaolô chấn chỉnh quan điểm sai trái của đám đông: “Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta! Hỡi các bạn, các bạn làm gì thế này? Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm, cùng thân phận với các bạn. Chúng tôi loan Tin Mừng cho các bạn, là hãy bỏ những cái hão huyền này đi, mà trở lại cùng Thiên Chúa hằng sống, Đấng đã tạo thành trời đất với biển khơi cùng muôn loài trong đó” (Cv 14:11 & 15). Cả ông Phêrô và Phaolô đều hướng dẫn sai những người nghe và người đọc nếu trong thực tế Chúa Giêsu đã trở lại là Tổng lãnh Thiên thần Micae.
           Chúa Giêsu là “Adam cuối cùng” sau khi Ngài phục sinh và cũng phải vẫn là chính Ngài vì “Adam đều tiên” (1 Cr 15:45-49) ngụ ý “Adam cuối cùng” cũng là con người sau khi sống lại – mặc dù được vinh hiển.
– Thân xác trần gian: chết chóc, nhục nhã, yếu đuối, tự nhiên.
– Thân xác phục sinh: bất tử, vinh quang, mạnh mẽ, thần linh.
         Xin “mở ngoặc” một chút: Có người lý luận là Chúa Giêsu sống lại vẫn ăn uống, vậy sao không còn nhân tính. Với thiển ý và khả năng hiểu biết hạn hẹp, người dịch nói dơn giản là “Chúa Giêsu ăn uống chỉ là ‘ăn uống chơi cho vui’ thôi, nếu còn nhân tính như phàm nhân mà ‘không ăn uống thật’ thì sẽ đói và chết”.
           Quả thật, trước khi phục sinh, Chúa Giêsu cảm thấy đói sau thời gian ăn chay (Mt 21:18; Mc 11:12), còn sau phục sinh thì Ngài không cảm thấy đói nữa. Vài lần Ngài hỏi các môn đệ có gì ăn không và Ngài ăn trước mặt họ vì Ngài muốn củng cố đức tin cho họ.

     Trầm Thiên Thu (Chuyển ngữ từ Catholic.com và ReasonableFaith.org)
Mùa Phục Sinh – 2013

Thứ Hai, 20 tháng 5, 2013

NÉT ĐẸP ĐỜI LINH MỤC


Cuộc sống quanh ta với biết bao là nét đẹp. Nét đẹp của hoa cỏ đồng nội. Nét đẹp của trăng sao, cá nước chim trời. Nét đẹp của những cánh đồng mênh mông bát ngát, hay nét đẹp của những dòng sông hiền hòa, trĩu nặng phù sa. Nét đẹp của thiên nhiên và nét đẹp của con người. Đó là nét đẹp của trí tuệ, nét đẹp về hình thể, nét đẹp của lòng nhân ái bao dung, nét đẹp trong những lời thơ, tiếng hát v.v… Thế nên, một nhạc sĩ đã từng viết: “Cuộc đời quanh ta có biết bao là nét đẹp.” Vậy những nét đẹp của đời linh mục là gì? Tại sao đời linh mục lại có những nét đẹp như thế?
Trong một bài viết đã lâu, linh mục Anthony Đào Quang Chính, OP, có đề cập đến 6 niềm vui sướng và 5 niềm khổ đau trong đời linh mục: “Cái sướng thứ nhất là được gọi bằng “cha”; thứ hai là được bài hát nào đó ca tụng rằng: Chúa chọn con lên hàng khanh tướng; thứ ba là nghe tội người khác; thứ tư là ngồi chỗ kính trọng; thứ năm là không bị lo lay-off, nghĩa là thất nghiệp; và thứ sáu là cha nói một tiếng bằng chúng con nói mười tiếng.” Suy cho cùng, những niềm vui sướng ấy chỉ dừng lại ở khía cạnh hình thức bên ngoài mà thôi. Những niềm vui sướng ấy không nói lên những nét đẹp nơi căn tính và sứ vụ của người linh mục. Căn tính sâu xa của đời linh mục đó chính là nét đẹp của tâm linh, nét đẹp của sẻ chia, nét đẹp của tha thứ, và nét đẹp của hy sinh.
1/ Nét đẹp của tâm linh
Linh mục là con người của cầu nguyện, là thầy dạy về cầu nguyện. Là con người của cầu nguyện, linh mục nguyện gẫm, suy niệm Lời Chúa, giảng dạy Lời Chúa, viếng Chúa, Chầu Thánh Thể và dâng Thánh lễ mỗi ngày. Đó là những nét đẹp tâm linh trong đời linh mục.
Mỗi lần nguyện gẫm, linh mục có thời gian nhìn lại chính mình, nhìn lại mối tương quan giữa mình với Thiên Chúa, hay mối tương quan giữa mình với giáo dân. Mỗi lần suy niệm hay giảng dạy Lời Chúa, linh mục phải là người để Lời Chúa soi sáng, dẫn đường để rao giảng những lời của an ủi yêu thương, những lời của sự thật và sự sống. Mỗi lần viếng Chúa, chầu Thánh Thể, linh mục quỳ gối thinh lặng, cầu nguyện và chiêm ngắm Thánh Thể là bí tích của tình yêu, một tình yêu cao trọng, một tình yêu đến cùng mà Chúa Giêsu, vị linh mục thượng phẩm đời đời đã dành cho nhân loại. Mỗi lần dâng Thánh lễ là mỗi lần linh mục hiệp cùng hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá, để dâng cả những suy nghĩ, dự định, ước muốn; dâng cả những lỗi lầm, bất xứng trong đời linh mục lên cho Thiên Chúa Cha, để cầu nguyện cho bản thân, nhất là cầu nguyện cho những đau khổ của đoàn chiên mà Chúa trao phó.
2/ Nét đẹp của sẻ chia
Nhiều bổn đạo đau khổ, tuyệt vọng bởi những biến cố đau thương giữa đời thường. Họ tìm đến nhờ linh mục cho những lời khuyên, giúp lời cầu nguyện để vượt qua những khó khăn và thử thách. Đau khổ về tinh thần lẫn vật chất. Nhiều bà con vướng vào cảnh nợ nần, hoặc quá nghèo tìm đến với linh mục, nói thật những đau khổ ấy với linh mục, họ hy vọng được ngài sẻ chia. Có cha mẹ nào lại không thương những đứa con đang hoạn nạn, nghèo túng của mình. Vì vậy, người linh mục luôn đồng cảm với những nỗi thống khổ của nhiều bổn đạo trong giáo xứ mà ngài coi sóc. Cha giúp lời cầu nguyện. Cha thăm viếng động viên. Thậm chí cha giúp một chút tiền để họ vượt qua khủng hoảng và bế tắc. Vì vậy, linh mục là người “bị ăn”, là tấm bánh được bẻ ra để phân phát cho những ai đang đói khát.
Nhiều linh mục tổ chức mời đoàn bác sĩ ở thành phố về nhiều giáo xứ tỉnh lẻ ở thôn quê để khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho bà con giáo dân. Nhiều linh mục tổ chức những đợt phát quà cho bà con giáo dân nghèo mỗi dịp Giáng sinh hay Tết đến. Nhiều linh mục tổ chức những đợt phát học bổng cho các em thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn nhưng chăm chỉ học hành. Gia đình nào có tang chế, linh mục đến hiệp dâng Thánh lễ, cầu nguyện và chia sẻ sự mất mát lớn lao. Đó là những nét đẹp của sẻ chia và yêu thương trong đời linh mục.
3/ Nét đẹp của tha thứ
Theo gương Chúa Giêsu, người linh mục là con người của tha thứ. Ngài tha thứ cho những bổn đạo nói xấu, chỉ trích, lên án mình. Ngài tha thứ cho nhiều hối nhân nơi tòa giải tội. Ngài tha thứ cho những lầm lỗi, thiếu sót cho bà con đang làm việc trong các hội đoàn. Đó là nét đẹp của lòng bao dung. Vì yêu thương con cái nên cha mẹ sẵn sàng tha thứ, không chấp nhất những lỗi lầm, khuyết điểm của con. Vì yêu thương đoàn chiên nên người linh mục luôn đón nhận tất cả vào vòng tay nhân ái của người mục tử nhân lành.
Vì vậy, nơi nét đẹp của tha thứ, mỗi Kitô hữu chúng ta còn khám phá ra nơi khuôn mặt của mỗi linh mục sự hiền lành và phúc hậu. Nét đẹp ấy đã giúp nhiều hối nhân lấy lại niềm tin yêu và cậy trông vào Thiên Chúa. Cả thế giới vô cùng cảm kích trước nghĩa cử Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tới một nhà tù, thăm hỏi và tha thứ cho người thanh niên bắn những phát súng để ám sát ngài. Phải chăng đó là nghĩa cử xuất phát từ những gì Chúa Giêsu đã dạy và đã sống?
4/ Nét đẹp của hy sinh
Làm linh mục đòi hỏi phải có sự hy sinh. Hy sinh thời gian, sức khỏe; hy sinh những phút thư giãn của bản thân để phục vụ nhu cầu tâm linh của nhiều bà con bổn đạo; hy sinh sống đời độc thân không có vợ con để dành trọn thời gian và công việc cho việc phục vụ Giáo hội và mọi người. Bởi vậy, nét đẹp của hy sinh được kết nên bởi những từ bỏ trong đời linh mục. Người linh mục đúng nghĩa phải là một con người của sự từ bỏ của cải vật chất, từ bỏ những quyến luyến của tình cảm, của đam mê xác thịt, hay từ bỏ những cám dỗ quyền lực, danh vọng để sống đơn sơ, thanh thoát và dấn thân cho sứ vụ mục tử.
Tình yêu đòi hỏi phải có hy sinh. Hy sinh càng nhiều tình yêu càng có ý nghĩa và đúng nghĩa. Tuy nhiên, ngày nay, tâm lý tự nhiên ai cũng sợ hy sinh và từ bỏ. Người linh mục sợ hy sinh vì thấy lòng mình chưa thật sự từ bỏ dứt khoát những lôi cuốn của sự đời. Người linh mục sợ cô đơn vì động lực dấn thân vì lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội chưa thật sự mạnh mẽ. Vì vậy, tận trong sâu thẳm cõi lòng, nhiều linh mục vẫn chân nhận rằng mình cảm thấy cô đơn và đấu tranh với những phân mảnh trái ngược nhau diễn ra trong tâm hồn như trong “Lời Kinh Chiều Chúa nhật”, Linh mục Michel Quoit đã viết:
“Lạy Chúa, chiều nay chiều Chúa nhật, một mình con quỳ đây đối diện với ngọn đèn chầu, đối diện với Thánh Thể Chúa. Giờ này, nhiều gia đình đang sum họp ăn uống, cười nói vui vẻ bên nhau, còn con thì lặng lẽ âm thầm cầu nguyện với Chúa. Con bắt tay nhiều người nhưng không giữ lại một bàn tay nào cho riêng mình. Con tiếp xúc với nhiều trẻ con, nâng niu và vui đùa với chúng. Nhưng lạy Chúa, đó là những đứa trẻ của người khác chứ không phải là của con. Con giơ tay ban phép lành xá tội cho nhiều người, nhưng những tội đời của con thì chỉ có Chúa mới hiểu mà thôi… Lạy Chúa, làm linh mục có những phút giây cô đơn rất thật như thế, nhưng con tin rằng những phút giây ấy là cơ hội để con trắc nghiệm lại động lực ơn gọi dấn thân trong sứ vụ đời mình.”
Tóm lại: trong cuộc đời này cái gì cũng đều có hai mặt. Đời linh mục cũng vậy. Nhiều bậc cha mẹ muốn con đi tu làm linh mục cho sướng cái thân, ra đời lăn lộn kiếm tiền, vất vả khổ cực lắm! Nhưng họ đâu biết rằng, đằng sau những hào nhoáng, sung sướng bên ngoài ấy, người linh mục hằng ngày phải chiến đấu với bản thân, chiến đấu trong lời kinh, nguyện cầu. Làm linh mục có nhiều cái sướng nhưng khổ đau cũng không phải là ít, thậm chí khổ nhiều hơn sướng. Thế nhưng, nhờ những nét đẹp tâm linh, nét đẹp của sẻ chia, nét đẹp của tha thứ, hy sinh mà người linh mục có thêm động lực tình yêu để sống trọn vẹn trong ơn gọi. Những nét đẹp đời linh mục cho thấy Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng của niềm vui, của niềm tin yêu và hy vọng cho thế giới hôm nay.
            
   Tâm Thương (WGPSG)

NIÊN GIÁM TÒA THÁNH 2013


          Sáng thứ Hai 13 tháng 5, Đức Hồng Y Tarcisio Bertone Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và Đức Tổng Giám Mục Angelo Becciu, Phụ Tá Quốc Vụ Khanh đã trình lên Đức Thánh Cha Phanxicô Niên Giám Tòa Thánh 2013 và Thống Kê Giáo Hội Thường Niên (Annuarium Statisticum Ecclesiae) năm 2011. 
      Cả hai cuốn đều đã được soạn thảo bởi Đức Ông Vittorio Formenti, phụ trách Văn phòng thống kê Trung ương của Giáo Hội, Giáo sư Enrico Nenna và cộng tác viên khác. Đức Thánh Cha đã bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với những đóng góp của các vị biên soạn.
              Thống kê của Tòa Thánh cho thấy số người Công Giáo trên toàn cầu nhìn chung vẫn ở mức 1.214 tỷ, tăng chỉ cao hơn một chút so với tốc độ tăng trưởng dân số toàn cầu trong giai đoạn 2010/2011.
         Số linh mục dòng và triều đã gia tăng, chủ yếu là do sự gia tăng ơn gọi ở châu Á và châu Phi đã giúp cân bằng xu hướng tiếp tục suy giảm ở châu Âu (-9% trong thập kỷ qua).

       Tuy nhiên, tình trạng không được lạc quan mấy đối với số lượng nữ tu đã giảm đến 10% trong thập kỷ qua. 
Số liệu thống kê đáng ngạc nhiên nhất được nêu trong Niên Giám Tòa Thánh năm 2013 là sự bùng nổ trong ơn gọi phó tế vĩnh viễn, đặc biệt là ở châu Âu và Mỹ, nơi số phó tế đã tăng hơn 40% trong thập kỷ qua.

Niên Giám Tòa Thánh 2013 đã ghi lại các dữ liệu chính trong đời sống của Giáo Hội Công Giáo trên thế giới, trong năm 2012, cho đến cuộc bầu cử Giáo Hoàng vừa qua. Trong thời gian này Giáo Hội có thêm 11 Tòa Giám Mục, 2 giáo hạt Tòng Nhân, 1 hạt đại diện tông tòa và 1 miền phủ doãn tông tòa.
      Bên cạnh đó một miền phủ doãn tông tòa đã được nâng lên bậc giáo phận và 2 miền phũ doãn dành cho các tín hữu theo nghi lễ Đông Phương được nâng lên hàng giáo phận.

      Số người Công Giáo trên toàn thế giới đã tăng từ 1.196 tỷ trong năm 2010 đến 1.214 tỷ trong năm 2011, tức tăng 1.5%. Sự tăng trưởng này là chỉ cao hơn một chút so với sự tăng trưởng dân số của thế giới là 1.23%. Sự hiện diện của người Công Giáo trên thế giới chủ yếu vẫn không thay đổi, tức là vẫn ở mức 17.5%. 

Số người Công Giáo Phi Châu tăng 4.3%. Châu Á tăng 2.3%. Sự tăng trưởng về số lượng người Công Giáo ở Mỹ và châu Âu vẫn ổn định, phù hợp với tăng trưởng dân số là 0.3%.

         Trong năm 2011, tổng số người Công Giáo được rửa tội phân phối trên các lục địa là: 16.0% ở châu Phi, 48.8% ở châu Mỹ, 10.9% ở châu Á, 23.5% ở châu Âu và 0.8% ở Châu Đại Dương.
         Số lượng các Giám Mục trên thế giới tăng từ 5104 đến 5132. Sự gia tăng đặc biệt có liên quan đến Châu Đại Dương (4.6%) và châu Phi (1.0%). Số các Giám Mục ở Mỹ và Châu Âu không thay đổi bao nhiêu và vẫn chiếm 70% số Giám Mục trên toàn thế giới.
        Tính chung các linh mục triều và dòng, tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2001, Giáo Hội có 405,067 linh mục; một thập niên sau, tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2011, Giáo Hội có 413,418 linh mục. 
       Số phó tế vĩnh viễn đang bùng nổ trên toàn cầu. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2001, Giáo Hội có 29,000 phó tế. Một thập niên sau, Giáo Hội có 41,000 phó tế. 
       Các phó tế ở châu Âu tăng từ 9,000 trong năm 2001, đến 14,000 trong năm 2011, tức là tăng hơn 43%. 
      Ở Mỹ số lượng phó tế tăng từ 19,100 phó tế năm 2001 lên hơn 26,000 trong năm 2011. 
       Như vậy, số phó tế ở châu Âu và châu Mỹ chiếm 97.4% tổng số phó tế toàn cầu.
      Số nữ tu đã giảm từ 792,000 trong năm 2001 còn 713,000 vào năm 2011.
       Các chủng sinh trên toàn cầu tăng từ 112, 244 vào năm 2001 lên 120,616 vào năm 2011, tức tăng 7.5%. Sự phát triển rất khác nhau trong các châu lục. Trong khi châu Phi tăng 30.9% và châu Á tăng 29.4%, châu Âu sụt 21.7% và châu Mỹ đã sụt 1.9%.
                             
                                                                               Nguồn tin: Vietcatholic

PHÂN TÍCH CÂU “KẺ MẠNH LÀ KẺ VÁC NGƯỜI KHÁC TRÊN VAI MÌNH CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ KẺ ĐẠP LÊN VAI NGƯỜI KHÁC ” CỦA NAM CAO

Dẫn nhập
Nam Cao, tên thật là Trần Hữu Tri sinh năm 1917 tại xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông dạy học rồi chuyển sang viết văn từ lúc còn rất trẻ. Tên tuổi của ông thực sự được quen biết từ sau khi truyện ngắn Chí Phèo- một truyện ngắn xuất sắc của ông và của nền văn học hiện thực Việt Nam xuất hiện vào năm 1941. Một truyện ngắn đáng chú ý khác mà Nam Cao viết về tầng lớp tiểu tư sản trí thức nghèo, đó là tác phẩm Đời Thừa. Trong tác phẩm Đời Thừa, tác giả phản ánh một ước mơ được sống trong cảnh hòa bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân và tầng lớp tri thức nghèo. Tác giả cảm thông và xót xa đối với tấm bi kịch tinh thần đau đớn dai dẳng của người tri thức nghèo có tài năng, có tâm huyết và giàu lòng nhân đạo trong xã hội lúc bấy giờ. Nam Cao còn lên án gay gắt cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi ước mơ, cướp đi cuộc sống chân chính của con người, đầu độc tâm hồn và mối quan hệ giữa người và người mà làm cho bản chất tốt đẹp của con người thay đổi. Trong tác phẩm đời thừa, Nam Cao viết: “Kẻ mạnh là kẻ vác người khác trên vai mình chứ không phải là kẻ đạp lên vai kẻ khác”. Vậy, kẻ mạnh mà tác giả muốn nói đến ở đây là kẻ mạnh như thế nào? Chúng ta phải làm gì, phải sống như thế nào để trở nên kẻ mạnh vác người khác trên vai mình chứ không phải là kẻ mạnh đạp lên vai người khác? Dưới đây, em xin phân tích để làm sáng tỏ câu nói trên.
I. Kẻ mạnh đạp trên đầu người khác và kẻ mạnh vác người khác trên vai mình?
1. Thế nào là kẻ mạnh?
Theo từ điển Tiếng Việt, kẻ mạnh là một người hay một tổ chức vượt trội hơn về sức lực, tiềm lực, là kẻ mạnh về mọi mặt, có khả năng chịu đựng gánh vác trách nhiệm nặng nề trong công việc đối với một người hay một tổ chức nào đó…(Nguyễn Như Ý, Đại Từ Điển TiếngViệt, nxb VH-TT, 1999). Nhưng ngược lại, kẻ mạnh cũng có thể dùng sức mạnh của mình để chà đạp lên người khác…
          Có rất nhiều kẻ mạnh khác nhau, với bài viết này , em xin được trình bày kẻ mạnh về kẻ mạnh với sức mạnh của vũ khí, quyền lực, tiền bạc; và kẻ mạnh với sức mạnh của tình yêu, niềm tin và hy vọng.
2. Kẻ mạnh đạp lên vai người khác.
          Trong tác phẩm Đời Thừa, khi đứng trước một sự lựa chọn nghiệt ngã, một bên là sự nghệp văn chương của riêng mình, một bên là sự sống của gia đình, nhân vật Hộ đã đấu tranh rất quyêt liệt. Tư tưởng sống ích kỷ để trở nên kẻ mạnh của một nhà triết học đã từng cám dỗ Hộ. Đó là: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”. Trước gánh nặng của gia đình, Hộ điên người lên vì cứ phải xoay tiền để lo cho cuộc sống của vợ con. Hộ còn điên người lên vì con khóc mà không lúc nào được yên tĩnh để sáng tác, vì thế mà Hộ trở nên cau có và gắt gỏng với con, với vợ, với những người thân của Hộ. Hộ đã muốn xua đuổi vợ con ra khỏi nhà để quang đi cái gánh nặng của người chồng là cứ phải lo kiếm tiền và dành thời gian để chăm lo cho cuộc sống của gia đình. Vì muốn thành công trong sự nghiệp văn chương, muốn trở nên một kẻ mạnh mà Hộ đã muốn xua đuổi và đối xử tàn nhẫn với vợ con, là những người thân yêu của mình, cùng chung sống với mình, cùng chia ngọt sẻ bùi với mình trong cuộc sống hàng ngày…
Trong xã hội mà chúng ta đang sống, kẻ mạnh đã và đang dùng sức mạnh của quyền lực, của vũ khí, của tiền bạc…để chà đạp lên đầu người khác một cách tàn bạo và thô thiển. Đau đơn thay, chúng lại chà đạp lên chính những người thân của mình, dân tộc mình. Chúng dùng súng, dùng búa, dùng liềm- những thứ được trang bị để bảo vệ dân, bảo vệ đất nước-, thì chúng lại dùng để đàn áp, đánh đập chính dân tộc mình và cắt tỉa những người tri thức yêu nước…Chúng thêu dệt nên huyền thoại, nên những trang sử, những tư tưởng sai lệch để đầu độc tâm hồn và tư tưởng của nhân dân, lại còn bắt cả dân tộc học tập và làm theo. Lại nữa, chúng đổi trắng thay đen, ca tụng kẻ gian ác và lên án người vô tội nhằm che dấu sự thật, che dấu những tội ác khủng khiếp mà chúng đã gây ra cho con người, cho dân tộc để thỏa mãn lòng ích kỷ của chúng... Trong khi đó, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc như: con người đoàn kết yêu thương nhau, trẻ kính già, con cái tôn kính cha mẹ, người mang ơn thì phải trả ơn người làm ơn cho mình…thì chúng lại gây ra sự hận thù, chia rẽ, con cái đấu lại cha mẹ, người mang ơn tố lại người làm ơn cho mình…làm cho mối dây liên kết tình người, đoàn kết dân tộc bị phá vỡ. Như trong tác phẩm Đời thừa, tác giả viết thì“chúng giống như một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác lên đôi vai mình”.
3. Kẻ mạnh vác người khác trên vai mình.
Vì muốn thành công trong sự nghiệp văn chương, nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời Thừa đã muốn ruồng rẫy để mặc cho vợ con khổ sở. Tư tưởng muốn thành công muốn làm kẻ mạnh thì phải độc ác, tàn nhẫn đã cám dỗ Hộ. Nhưng, Hộ là một con người. Hộ nghĩ rằng: “Hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến”. Suy nghĩ ấy đã giúp Hộ tỉnh ngộ, sống chân chính, yêu thương với nguyên tắc sống rất cao cả. Kamax nói: “Chỉ có súc vật mới quay lưng laị với nỗi khổ của đồng loại, để chỉ chăm sóc cho bộ da của mình”. Hộ cho rằng, con người khác con vật là ở chỗ sống có tình yêu thương, sự tha thứ…
Theo Kinh Thánh bí quyết của tình yêu là sự chết, tức là hy sinh. Chỉ có yêu thương, tha thứ mới giúp chúng ta có sức mạnh vác người khác trên vai của mình. Khi sống yêu thương, tha thứ cho nhau, con người sẽ cảm nghiệm thấy:“tình yêu mạnh hơn sự chết” (x. Dc 8, 6) mà “dám hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (x. Ga 15, 13) chứ không đạp lên vai người khác.
Vì yêu thương, Hộ đã mở lòng bác ái để cứu vớt, cưu mang Từ, một nạn nhân đáng thương, bị tình nhân bỏ rơi với đứa con mới đẻ. Hộ phụng dưỡng mẹ già của Từ, đón nhận đứa con của Từ…. Hộ tha thứ và quên đi quá khứ của Từ. Vì yêu thương, muốn chăm sóc cho vợ con, cho gia đình, Hộ đã tính chuyện sẵn sàng gác bỏ sự nghiệp văn chương của mình để lao vào kiếm tiền lo cho vợ con để xây dựng hạnh phúc gia đình…
II. Kẻ mạnh đạp lên vai người khác sẽ bị tiêu diệt, ngược lại kẻ mạnh vác người khác trên vai mình sẽ tồn tại.
1. Kẻ mạnh đạp lên vai người khác sẽ bị tiêu diệt
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà nền kinh tế, khoa học kỹ thuật phát triển không ngừng, đem lại nhiều lợi ích cho con người. Thế nhưng, chúng ta cũng đang sống trong một thế giới mà khủng bố, chiến tranh… ngày một lan rộng, đã gây ra và để lại cho con người những hậu quả khủng khiếp. Nhiều nước có sức mạnh quân sự với những loại vũ khí nguyên tử có sức hủy diệt khủng khiếp. Nhiều nước thi nhau chạy đua vũ trang để đe dọa nhau và muốn giải quyết các vấn đề bằng bạo lực. Một thế giới mà kẻ mạnh đạp lên đầu kẻ yếu…
Nhìn lại lịch sử thế giới qua hai cuộc chiến tranh, người ta ước tính: thế chiến thứ nhất (1914-1918), đã làm cho khoảng 37 triệu người bị chết, mất tích và bị thương, chi phí cho chiến tranh hết khoảng 200 tỷ USD. Thế chiến thứ hai (1939-1945), đã làm cho khoảng 56 triệu người bị chết, mất tích và bị thương (Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử thế giới, vxb VH-TT, năm 1999, trang 191 và 261). Kẻ thắng cũng như kẻ bại đều chịu những thiệt hại không lường trước được mà không giải quyết được vấn đề. Những kẻ mạnh như: Chủ nghĩa Thực dân, chủ nghĩa Đế quốc, chủ nghĩa Phát xít, Chủ nghĩa Cộng Sản… đã và đang bị loài người lên án và tiêu diệt.
2. Kẻ mạnh vác người khác trên vai mình sẽ tồn tại.
          Ngược lại với một thế giới với những nước có sức mạnh của quân đội của vũ khí, quyền lực, tiền bạc, có thể nói rằng, người ki-tô hữu chúng ta sống trong Vương quốc khác nữa- đó chính là Hội Thánh. Hội Thánh Chúa không có sức mạnh của quân đội, của vũ khí, tiền bạc, quyền lực. Hội Thánh Chúa chỉ có sức mạnh của con tim biết yêu thương, sự tha thứ, niềm tin và hy vọng. Nơi mà: “Dù trong đêm tối, dù trong tuyệt vọng, khi không còn ý nghĩa gì nữa, chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa của sự sống”. (Timothy Radcliffe, OP., Hát Lên Bài Ca Mới, Chân Lý 2000).
Lịch sử Hội Thánh suốt 2000 năm qua phải hứng chịu những bạo lực, bị những kẻ mạnh dùng sức mạnh của vũ khí, quân đội chà đạp…nhằm tiêu diệt Hội Thánh. Không lấy bạo lực để đáp trả bạo lực nhưng bằng con đường yêu thương, tha thứ và sự kiên trì dạy dỗ, Hội Thánh đã đưa nhiều người trở về với Chúa, góp phần xây dựng hòa bình thế giới, đem niềm tin, niềm hy vọng đến cho con người. Trải qua bao sóng gió, khó khăn, bách hại, lịch sử Hội Thánh đã để lại cho chúng ta một bài học như: càng chém giết, càng bắt bớ, thì người ta càng làm đạo Chúa lan rộng mãi, như lời Tertullianô nói: "Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống trổ sinh con nhà có đạo".  
Trong thời cách mạng Pháp, Napolêon- một kẻ bách chiến bách thắng đã muốn dùng sức mạnh của để chà đạp và muốn tiêu diệt Hội Thánh. Napolêon với sức mạnh của mình đã tự tin tuyên bố với Hồng Y Consalvi, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh rằng: "Ông không biết sao: tôi có thể tiêu diệt cả Hội Thánh".  Hồng Y Consalvi hóm hỉnh trả lời:"Thưa ngài, chính chúng tôi đây là kẻ ở bên trong Hội Thánh, mà dù với bao gương xấu, tội lỗi, chia rẽ khuyết điểm vẫn không phá nổi Hội Thánh, suốt 19 thế kỷ qua thì sức mấy mà ngài phá tan Hội Thánh được!". Về sau, Napolêon đã tuyên bố: "Các dân nước qua đi, các ngai vàng sụp đổ, Hội Thánh vẫn tồn tại!"  (x. ĐHY Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận, Những người lữ hành trên đường hy vọng, trang 97).
Tạm kết
          Câu nói của Nam Cao mang một triết lý sống sâu sắc. Là người, chúng ta phải sống có tình yêu thương, chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ lẫn nhau… Sống trên đời, con người không thể sống thiếu tình yêu thương, càng không thể sống đơn độc mà chỉ biết sống cho riêng mình. Kẻ nào sống đơn độc, thiếu tình yêu thương, chà đạp lên người khác sẽ bị loại trừ và tiêu diệt. Ngược lại, người nào sống yêu thương, chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau… sẽ tồn tại và phát triển. Sống trong một thế giới hòa bình hạnh phúc, con người gần gũi yêu thương nhau là mong ước của nhiều người nhiều dân tộc. Và đó cũng là mong ước và là quan niệm văn chương của Nam Cao: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và gới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó chứa đựng được những gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng tình bác ái, sự công chính… Nó làm cho người gần người hơn”.
                                                      Maria Nguyễn Thị Thiện
                                                   Dòng Thánh Tâm Truyền Giáo

Thứ Tư, 15 tháng 5, 2013

CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ CỦA CHÚA GIESU


Bạn thân mến:
            Màu nhiệm Lịch sử Cứu độ là ý định yêu thương từ muôn đời của Thiên Chúa, nhằm thông ban sự sống, hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho loài người. Ý định này được thực hiện qua công cuộc sáng tạo của Ngài. Nhưng vì loài người khước từ, mở đường cho sự dữ sâm nhập vào thế gian, gây nên đau khổ và sự chết. Thiên Chúa vẫn thực hiện ý định yêu thương, nên đã sai con một xuống thế làm người để cứu độ loài người. Ý định của Thiên Chúa được thực hiện qua một chương trình, diễn ra trong lịch sử loài người: Lịch sử dân Irael.
 Lịch sử Cứu độ chính là:
-         Cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người,
-         Bắt đầu từ việc Thiên Chúa tạo dưng trời đất muôn vật,
-         Trải qua các bước thăng trầm trong thời gian,
-         Nhưng luôn quy hướng về Chúa Kitô là trung tâm của lịch sử,
-         Và chỉ hoàn tất khi Chúa Kito lại đến.
 Thiên Chúa đã làm công việc mặc khải đó qua hai cuốn sách.
-         Cuốn sách vũ trụ: Mạc khải tự nhiên.
-         Cuốn sách Kinh Thánh: Mạc khải siêu nhiên.
 Có tất cả 3 cuộc Mạc khải của Thiên Chúa:
1.    Mạc khải tự nhiên.
2.    Mạc khải siêu nhiên.
3.    Mạc khải trong Kinh Thánh.
Chúng ta đi sâu vào ơn Cứu độ của Thiên Chúa qua 2 Phần:
    Phần I: Cựu ước: Chuổn bị ơn Cứu độ.
    Phần II: Tân ước ban ơn Cứu độ.
       Giáo hội nhìn nhận Cựu ước có 46 cuốn, thuộc nhiều thể văn khác nhau như: Lịch sử, luật pháp, giáo huấn, giảng thuyết, thi ca do nhiều tác giả viết, rải rác từ khoảng 1000 năm trước khi Chúa Giêsu sinh ra.
          Cựu ước là một lịch sử hướng về tương lai. Cựu ước hướng đến việc thực hiện ý định Cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân loại. Mạc khải về ý định Cứu độ của Thiên Chúa chỉ được hoàn tất nơi Đức Kitô.
 Cựu ước hướng tới Đức Kitô, báo trước và chuổn bị cho Người.
 Mở đầu phần Cựu ước là sách sáng thế. Nói về việc Thiên Chúa sáng tạo muôn vật trên mặt đất này, muôn tinh tú trên bầu trời và đặc biệt Thiên Chúa sáng tạo con Người theo hình ảnh của Ngài. Mọi việc Thiên Chúa sáng tạo đều tốt đẹp. Diễn tiến cuộc sáng tạo của Ngài trong 6 ngày như sau:
-         Nhập đề: Thiên Chúa đã phán.
-         Ra lệnh: Hãy có ánh sáng, hãy có đèn trời …..
-         Mô tả việc: Thiên Chúa phân rẽ sáng và tối…..
-         Đặt tên hoặc chúc phúc: Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, tối tăm là đêm….
-         Ca tụng: Thiên Chúa thấy thế là tốt lành.
-         Kết thúc: Đã có một buổi chiều và một buổi sáng. Đó là ngày thứ nhất……….
          Sáu ngày Thiên Chúa tạo dựng được chia làm 2 giai đoạn song song và có liên hệ với nhau là: Công trình phân tách và công trình Trang trí.
          Con Người được Thiên Chúa sáng tạo trong ngày thứ sáu, theo hình ảnh của Thiên Chúa và đặt cho con người làm chủ mọi vật Thiên Chúa sáng tạo, được đặt tên cho các con vật. Sau đó Thiên Chúa đặt con người trong vườn Êden để canh tác: trong vườn này muôn trái cây đều được ăn nhưng chỉ có một trái cây ở giữa vườn Người không được ăn và nếu ăn thì sẽ bị chết.
           Rắn là loại xảo quyệt nhất trong các loài Chúa đã dựng lên. Đã cám dỗ bà Evà ăn và sau đó đưa cho cả ông Ađam đang ở đó cùng ăn. Ăn xong mắt hai ông bà đã mở ra và thấy mình trần truồng, liền đi kết lá cây làm khố che thân, Thiên Chúa vào vườn và hỏi như mọi khi, lúc này Ông bà đang lấp sau rặng cây, vì sấu hổ mình trần truống. Thiên Chúa biết là ông bà đã ăn trái cây ta cấm, Thiên Chúa đã trừng phạt ông bà: Thiên Chúa phán với ông Adam rằng “ Từ nay người phải cực nhọc mới có bánh ăn, phải làm lụng vất vả mới nuôi được cuộc sống ” và Ngài nói với người đàn Bà: “ Phải cực nhọc khi mang nặng đẻ đau ”, rồi người đuổi ông bà ra khỏi vườn Êden. Từ đó tỗi lỗi đã lan tràn ra khắp nơi và truyền lại cho con Cháu sau này và mãi mãi về sau và từ đây con người đã đánh mất ân nghĩa với Chúa.
           Tội lỗi càng gia tăng Khi Cain giết Aben, trật tự Thiên Chúa bị đảo lộn “ con Trai Thiên Chúa lấy con gái loài người ”, Thiên Chúa đã hủy diệt mọi loài Thiên Chúa dựng nên, nhưng không tiêu điệt hết mà cứu vớt gia đình ông Noe và tái tạo loài người, sau đó tiếp tục là tội kiêu ngạo ở Tháp Baben. Tuổi thọ giảm tức là con người đã đánh mất ân sủng. Tội là nguyên nhân sự chết, con người chết sớm vì tội lỗi gia tăng. Qua tội lỗi của con người nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong tội nhưng đã lên kế hoạch cứu đội loài người.
          Thiên Chúa chuổn bị cho kế hoạch cứu độ của Ngài bằng cách kêu gọi ông Apraham, một người du mục, thuộc chi tộc Têrắc, Thành Ur, xứ Canđê.
  Khi nghe được tiếng Thiên Chúa mời gọi, Ông mau mắn đáp lại và dứt bỏ tất cả để ra đi, dù không hề biết mình sẽ đi đâu và được những gì.
 Thiên Chúa đã hứa với ông là sẽ cho:
-         Ông một dân tộc sẽ xuất phát từ Apraham.
-         Một đất nước cho dân tộc ấy.
-         Một phúc lành sẽ đến cho muôn dân nhờ Apraham.
           Sau đó Thiên Chúa thanh luyện niềm tin của ông khi yêu cầu ông sát tế I-sa-ác một thử thánh kinh khủng, nhưng ông Ap-ra-ham đã vâng phục. Lòng tin này thật phi thường, vượt trên mọi lí luận, tính toán và tình cảm của con người. Ông đã chấp nhận mọi điều Chúa dạy và mọi điều Chúa hứa.
           Ông sinh được 12 người con trai đứng đầu 12 chi tộc Is-ra-el. Các anh cư xử độc ác với Giuse, khi định giết cậu và gải pháp cuối cùng là bán Giuse sang Ai cập, nhưng Thiên Chúa đã biến nó thành cơ hội để cứu cả gia đình Gia-cóp thoát khỏi nạn đói và phát triển một dân đông đảo trên đất Ai cập.
          Thiên Chúa thấy nỗi cơ cực của dân và chuẩn bị cho họ một vị cứu tinh là ông Mô-sê. Ông được vị công Chúa cứu lên khỏi mặt nước và được công Chúa nuôi tại hoàng cung. Thiên Chúa đã dùng ông để cứu dân tộc It-ra-el ra khỏi Ai cập. Qua ông Mô sê, Thiên Chúa giáng xuống Ai cập nhiều tai họa. Nhưng phải đến tai họa thứ mười: Giết con đầu lòng Ai cập, thì con Chúa mới được ra đi. Bàn tay mạnh mẽ của Chúa đã đưa dân người qua biển đỏ và chôn vùi quan thù trong lòng biển sâu.
          Sau đó Ông Mô Sê đã dẫn dân đi trong xa mạc và trong xa mạc ông Mô sê đã  găp biết bao điều kho khăn mà dân của người. Chính những lần thử thách mà Thiên Chúa gửi đến cho dân chính là Thiên Chúa thử lòng tin của dân có còn trung thành với Ngài nữa không.
          Và Thiên Chúa đã kí kết với dân người một Giao ước, là Giao ước trên núi Sinai, Thiên Chúa đã chon dân riêng của người và chăn sóc như cha với con.
 Giao ước này được kí kết bằng một nghi lễ: Ông Mô sê đã lấy máu của các con vật hi sinh đổ một nửa trên bàn thờ và một nửa ông rảy trên dân chúng. Đó là hành động liên kết chặt chẽ với nhau những người cùng chung một đòng máu, chung một gia đình, chung một vận mệnh.
 Hòm bia Giao ước Thiên Chúa đã khắc 10 điều răn được cất giữ trong một hòm bia có dát vàng.
 Phụng tự gồm:
-         Lễ toàn thiêu.
-         Lễ thông hiệp.
-         Lễ xá tội.
 Sau khi ông Mô sê chết, Ông Giosue được Chúa chon để đưa dân Itrael vào đất Canan. Cuộc chinh phục đất hứa kéo dài khoảng  50 năm. Sau khi đã chiến thắng, họ đã thành lập một quốc gia.
          Sau một thời gian họ sống trên đất của họ thì nhiều lần họ đã bội Giao ước, bỏ Chúa để bắt chước lối sống của dân Canan mà thờ lạy ngẫu tượng.
          Thiên Chúa đã sai các Thủ Lãnh đến để cứu thoát dân người, Thiên Chúa dùng các Thủ Lãnh với mục đích đưa ra bài học có thể tóm lại 4 chữ: Tội, Phạt, Hối, Cứu.
-         Tội: Dân It-ra-el phạm tội bỏ Chúa.
-         Phạt: Thiên Chúa sửa dậy bằng tai họa.
-         Hối: Dân hối cải, trở về với Chúa.
-         Cứu: Thiên Chúa gửi các Thủ Lãnh đến giải thoát.
  Thời kì các Thủ Lãnh kéo dài khoảng 200 năm.
          Trải qua kinh nghiệm chiến tranh của thời các Thủ Lãnh, dân It-ra-el thấy rõ nhu cầu cấp bách phải có một vị đứng đầu để có thể tập trung sức mạnh quân sự chống lại hiểm họa sâm lược từ các dân xung quanh. Do nhu cầu thực tế lịch sử đó mà khai sinh nền quân chủ của It-ra-el vị vua đầu tiên là Sao lê, là người lãnh đạo cuộc chiến đấu chống lại quân Philitinh. Cho đến trân chiến với Amalech, ông đã nghe lời dân mà không thi hành lệnh Thiên Chúa, nên Chúa đã bỏ ông và chọn người khác đó là Đavít. Đa vít là vị Vua đạo đức và tôn kính Thiên Chúa nhưng ông cũng là con người yếu đuối: ông đã phạm hai tôi lớn:
-         Tội ngoại tình
-         Tội sát nhân.
          Nhưng ông đã biết khiêm tốn nhận lỗi lầm của mình và khi Đavít chuổn bị vật liệu xây đền thờ, thì Chúa tỏ cho ông hay chính Chúa sẽ xây nhà cho ông.
          Đavít chết và Salomon lên kế thừa khoảng năm 970 tcn. Salômon là một vị Vua nổi tiếng là sự khôn ngoan. Ông đã thực hiện được ước mơ xây dựng đền Thờ cho Chúa của Vua cha.
          Sau đó liên tiếp những lỗi lầm của Vua Salômon và con của SalômonRôbôam đã đưa dân chúng vào con đường lầm lạc và đưa đất nước đến chỗ diệt vong.
          Trước bối cảnh như vậy Thiên Chúa sai các Ngôn sứ đến để phục hưng lại Tôn giáo, cải tổ Xã hội và đời sống luôn lý của dân chúng.
           Sau cuộc lưu đày ở Babylon, người Do Thái hồi hương, đời sống gặp nhiều khó khăn nhưng họ đã xây dưng lại được đền Thờ và tường thành Giêrusalem. Điều quan trọng là phục hưng về Tôn Giáo. Cuộc lưu đày đã giúp cho họ được Thanh tẩy, canh tân đời sống, trở về với Chúa, chăm chú học hởi Lề Luật.
          Việc chuốn bị đã đầy đủ “ Thời gian tới hồi viên mãn Thiên Chúa đã sai con một mình tới ” là Đức Giê su, con Thiên Chúa làm người, Thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và đã sinh ra tại Bê Lem, xứ  Giu đê. Chúa Giê su xuống thế làm người  giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Cũng một người mẹ trần thế như bất cư một người bình thường nào trên trần gian nay. Đức Mẹ là người được Thiên Chúa tuyển chọn để cưu mang và hạ sinh Đức Giê Su.
          Chúa Giêsu làm người là để đến với tất cả loài người, không phân biệt Do Thái hay dân ngoại, sang giàu hay nghèo hèn. Chúa Giêsu hạ sinh , từ những người tầm thường cho đến những Đạo sĩ thông thái đều kêu mời đến thờ Đấng Cứu Thế. Đúng như tiên tri Isaia đã tiên báo Chúa Giêsu đến để:
-         Để đem Tin Mừng cho người nghèo khó
-         Là ánh sáng cho hết mọi dân tộc ( Is 42,9;49,6 )
 Cuộc đời của Chúa Giêsu sống tại trần gian được chia làm 3 thời kì:
-         Từ 1- 30 tuổi, Chúa Giê Su sống ẩn dật tại Nadarét miền Giuđê
-         30 tuổi Ngài đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ
-         33 tuổi Ngài chịu chết trên cây Thập Giá thời quan phong Xiophilato.
          Trong thời gian Ngài sống ẩn dật tại Nadarét: Ngài đã vâng phục Cha và Mẹ Người. Sống như một người bình dân, lao động vất vả để kiếm sống. Ngài đã rất chăm chú học Lời Chúa, thể hiện ở chỗ khi Cha và Mẹ người dẫn lên đền Thờ, thì Ngài không về luôn cùng Cha và Mẹ người mà ở lại nghe các Thầy Lêvi giảng dậy trong hội Đường.
          Băt đầu cuộc đời công khia của mình. Ngài đã đến sông  Giodan chịu phép rửa của ông Gioan. Nhưng ông Gioan không dán rửa cho Người và ông nói “ Ngài là Đấng quền năng, sao con có thể rửa cho Ngài, Ngài đến sau tôi và quền bính hơn tôi, tôi không đáng sách dép cho Ngai, Nhưng Ngài nói bây giờ cứ vậy đi ”
          Chỉ có Đức Giêsu là người duy nhất đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì vậy chỉ có Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, là Đấng Trung Gian duy nhất và hoàn hảo có thể đem ơn cứu độ cho loài người. Như vậy chân lý cơ bản liên quan đến sự cứu độ của mỗi cá nhân chính là sự hiệp nhất với Đức Giêsu để được cứu độ. Đức Giêsu đã hoàn tất việc cứu độ, nhưng ơn Cứu độ của mỗi người lại tuỳ thuộc vào việc đón nhận Đức Giêsu của từng người. Ngay từ buổi đầu, Giáo Hội sơ khai đã tuyên xưng niềm tin này :“Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4,12)
          Chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có thể chiến thắng tội lỗi và sự chết, vì vậy để có thể thông phần ơn cứu độ, con người phải hiệp nhất  với Chúa Giêsu. Các phương thế giúp con người thông phần ơn cứu độ: đức tin, đức cậy, đức mến, các bí tích, nhất là Rửa tội và Thánh Thể. Sự hiệp nhất của mỗi người chúng ta với Chúa Giêsu qui tụ chúng ta nên cộng đoàn Giáo Hội. Thánh Kinh đã dùng nhiều hình ảnh để diễn tả Giáo Hội: Cây nho, Đền thờ, Thân mình, Hiền thê.Giáo Hội cũng hiệp nhất với Chúa Giêsu khi tiếp tục sứ vụ của Ngài: Tư Tế, ngôn Sứ và Vương Đế.
          Bắt đầu tại Giêrusalem Trong cộng đoàn tiên khởi này, đứng đầu là thánh Phêrô và các Tông đồ. Khi số Tín hữu gia tăng, các tông đồ tuyển chọn thêm những người cộng tác với các Ngài để phục vụ bàn thờ và phục vụ người nghèo trong Giáo Hội. Họ được  gọi là các tá viên, bây giờ Giáo Hội gọi là các phó tế. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, các phó tế hoạt động rất hiệu quả (x. Cv 6-8).  Ông Stêphanô, là một trong bảy phó tế Do Thái gốc Hy Lạp, được tuyển chọn để giúp việc cho các Tông đồ. Với sự xuất hiện của ông và những đồng bào Do Thái gốc Hy Lạp, cộng đoàn những người theo Đức Kitô bắt đầu phát triển ra khỏi phạm vi của Do Thái Giáo và trung tâm Do Thái Giáo là Giêrusalem, lòng tin vào Đức Giêsu Kitô được truyền bá đi khắp nơi, đến với những người không phải là Do Thái.
          Cho đến tận cùng trái đất Giáo Hội mở rộng cửa đón nhận mọi người không phân biệt chủng tộc, màu da. Thánh Phaolô là người góp phần quan trọng nhất vào việc cắt đứt dây ràng buộc giữa Kitô giáo và Do Thái giáo, mở rộng con đường cho muôn dân đến với Đức Kitô và cho Giáo Hội đến với muôn dân. Công Đồng không buộc các Kitô hữu phải giữ tập tục của đạo Do Thái nữa. Như vậy, từ nay Giáo Hội Chúa Kitô mở rộng cửa cho mọi người. Kitô giáo là cùng đích của Do Thái giáo. Vì vậy các Kitô hữu phải kính trọng và thân thiện với Do Thái giáo.
          Giáo Hội hướng về cánh chung  Đức Giêsu Kitô đã lên trời, Giáo Hội tiếp tục công trình của Ngài cho đến ngày Ngài trở lại để phán xét muôn loài. Đó là ngày hoàn tất lịch sử cứu độ, ngày tiêu diệt vĩnh viễn tội lỗi và sự chết. Thiên Chúa sẽ đổi mới mọi sự : xác loài người ta sẽ sống lại vinh quang, muôn loài muôn vật được giải thoát khỏi cảnh hư nát.
          Đó là toàn bộ công trình cứu độ của Thiên Chúa, từ khi sinh ra cho đến lúc Ngài trút hơi thở cuối cùng trên Thánh Gía. Cả con người Ngài là một tình yêu bao la rộng lớn, Ngài luôn hướng đến con người và làm cho họ được trở về với tình yêu bao la của Thiên Chúa. Con người có tội lỗi nhưng Ngài không bỏ rơi con người để con người chìm ngập trong tội. Thiên Chúa đã dùng cả con người của Ngài để đem lại phần tốt nhất cho con người, để con người nhìn vào đó để biết được tình yêu rộng lớn mà Ngài đã dành cho nhân loại ta.

       Ant Công Chính