Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2015

GIỚI TRẺ HÔM NAY THẾ GIỚI NGÀY MAI

Bạn thân mến:
Giới trẻ ngày hôm nay, đang dần dần ý thức được sứ vụ cao cả của mình. Nghĩ đến tương lai vận mệnh của đất nước. Đặc biệt là nghĩ đến tương lai của mình là những người nắm toàn bộ vận mệnh. Cho nên, đứng trước những chân lý đang bị chà đạp, người trẻ không thể ngồi yên một chỗ để nhìn những bất công đó. Người dân ai cũng có tấm lòng yêu nước và bằng mọi cách bảo vệ và giữ gìn đất nước không bị quân thù xâm chiếm. Nhưng khổ thay giặc ngoài không có mà có giặc trong. Nhìn thấy giới trẻ có tinh thần như vậy, thì những nhà cầm quyền phải phấn khởi, vui mừng và tạo điều kiện cho giới trẻ để giới trẻ phát huy hết được khả năng của mình để công hiến cho đất nước. Nhưng ngược lại, nhà cầm quyền không những không tạo điều kiện mà còn tìm đủ mọi cách để kìm hãm sự phát huy này. Tìm cách để ngăn cản các em tìm đến với sự thật và chân lý. Giới trẻ muốn cho lương tâm của mình ngay chính, nói lên những sự thật trong lòng các em nhưng những người có chức trách lại tìm đủ mọi cách để ngăn cản những bạn trẻ này và kết tội cho họ là chống phá nhà nước. Nhìn vào thực trạng thì mỗi người chúng ta, kể cả những người xuất ngày chân lấm tay bùn thì họ cũng nhận ra được chân lý đang bị chà đạp, vùi lấp. Dường như nhân quyền đối với con người đang bị chà đạp cách nặng nề vào những năm gần đây. Qua những vụ nhà cầm quyền bạo lực với người dân ta thấy. Những người bảo vệ chân lý, làm việc trong ánh sáng, làm việc cho dân thì những năm gần đây những con người này lại là những người làm việc trong bóng tối mà người ta thường hay gọi đó là người ăn trộm, luôn rình mò trong bóng tối để có cơ hội thì đột nhập. Nhà cầm quyền là những người bảo vệ chân lý nhưng nay họ lại là những người bảo vệ bóng tối để vùi lấp chấn lý vào bóng tối.
Các bạn ạ, ngày cả những trẻ em đang còn bú mẹ cũng có thể biết con người khác con vật ở chỗ con người có lý trí còn con vật thì không. Nhưng nhìn vào xã hội bây giờ chúng ta đều thấy, những người lãnh đạo toàn là những người trên đầu đã có hai thứ tóc, dường như cuộc đời đã đến giai đoạn cuối, nhưng những con người này vẫn không biết điều cơ bản mà người trẻ con cũng biết. Họ vẫn làm việc như là một con vật không có sự suy xét, lương tâm họ dường như trai đá. Ý chí họ dường như bị trai lỳ bởi địa vị, tiền bạc vùi lấp không có chỗ hở cho họ thoát ra được. Lý trí họ lúc này chỉ làm việc theo bản năng mà thôi.
        Hôm nay, ngày 16/5/2013 sẽ diễn ra phiên tòa xét xử hai bạn trẻ yêu nước Phương Uyên và Nguyễn Kha. Tôi cảm thấy niềm cảm mến và thán phục hai em đã đám đứng lên nói sự thật về thực trạng về nhà nước. Tuy không được đến tham dự phiên tòa nhưng tôi vẫn theo dõi và đồng hành cùng hai bạn trẻ để chân lý được đưa ra ánh sáng. Các bạn là những tấm gương sáng cho thế hệ trẻ chúng ta noi theo. Sở dĩ tôi theo dõi mọi sự kiện từ khi Phương Uyên bị bắt cho đến bây giờ là vì: tôi rất tâm đắc cấu nói của Phương Uyên khi nói: Thế hệ trẻ bây giờ chúng con đang bị đàn áp mà cháu vẫn ngồi yên thì thế hệ sau của chúng con thì như thế nào, tương lai vận mạng của đất nước là của chúng cháu và của thế hệ sau, xã hội không phải của riêng ai nhưng là của chung của mọi người. Một câu nói làm cho tôi phải suy nghĩ và cảm thấy lòng yêu mến và nghĩ tới người khác của Phương Uyên. Giới trẻ đã nghĩ được như vậy mà tôi ngồi nghĩ lại những người có trách nhiệm dẫn dắt xã hội mà không nghĩ đến tương lai vẫn mang của đất nước. Tôi giả nghĩ, nếu những con người này có một chút suy nghĩ nhỏ trong cái súy nghĩ của Phương Uyên thì xã hội này đã thay đổi và phát triển hơn.
        Xã hội ngày hôm nay đang vùi dập những nhân tài cho đất nước. Nhưng với lòng can đảm của giới trẻ thì họ không chấp nhận ngồi yên và dậm chận tại chỗ để chờ sung rụng như nhà lãnh đạo ngày nay. Họ đám đứng lên để đưa cái tối tăm ra ánh sáng, vạch trần những tội ác mà nhà lãnh đạo đã làm, để cho người đân phải khổ cực. Những nhà lãnh đạo chỉ có biết nghĩ đến bản thân mình chứ không lo và nghĩ đến người khác.
        Dù có tra hỏi và dùng mọi hình thức nào để cho Phương Uyên và Nguyên Kha nhận tội nhưng với lòng yêu mến dân tộc, không để cho ánh sáng luôn bị vùi lấp trong bóng tối, họ đã không nhận tội theo cách này. Dù chết mà ánh sáng được tỏ lộ thì họ cũng cam lòng. Tinh thần này đã được thể hiện qua các bức tranh, cũng như những khẩu hiệu như 'Tàu khựa cút khỏi Biển Đông' (do tự tay Phương Uyên viết bằng máu). Phương Uyên cũng cho biết thêm, những hành vi xâm lược, cướp giết ngư dân Việt Nam ngày càng trắng trợn và dã man của Trung Quốc đã  khiến Phương Uyên 'phẫn uất lên đến tận cùng. Nhưng câu nói như vậy, không những chỉ mình tôi thán phục mà cả muôn người đều thán phục.
        Trong phiên tòa ngày 16/5/2013 Phương Uyên đã không xin khoan hồng và không nhận tội. Đây rõ ràng là một cái tát vào mặt bộ công an với đoạn video 'nhận tội' đã được phát sóng trước đó. Trước tòa, Phương Uyên dõng dạc khẳng định:"Tôi là sinh viên có yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì mọi người trẻ sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước.Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm". Bạn và tôi nghĩ sao khi nghe những câu này trong phiên tòa ?. Chính người cô của Phương Uyên là cô Nguyễn Thị Nhung cũng nói như sau: Là một người mẹ, là người đã sinh ra bé Uyên và nuôi đến ngày hôm nay, tôi cảm thấy rất vinh dự về Phương Uyên. Công lao mình nuôi con đến ngày hôm nay đã được thỏa mãn.
        1/ Giới trẻ là ai
        Để định nghĩa hay nói giới trẻ là ai thì khó mà nói một câu cho trọn tình trọn nghĩa. Theo tôi giới trẻ là những người trong độ tuổi từ 14 đến 25, hay từ 14 cho dến những người chưa có gia đình, không nói đến những người bệnh hoạn không lập gia đình được. Giới trẻ là những người năng động, sáng tạo, chịu chơi, thường hay tò mò, thích khám phá và ham vui chơi. Chính những đặc tính này làm cho ta dễ dàng nhận ra con người trẻ. Người ta thường nói: việc gì khó có thanh niên.
        2/  Sinh viên là gì:
        Sinh viên là người học tập tại các trường đại học, cao đẳng hay trung cấp chuyên nghiệp. Ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một ngành nghề, chuổn bị cho công việc sau này của họ. Họ được xã hội công nhận qua những bằng cấp đạt được trong quá trình học. Qúa trình học theo phương pháp chính quy, tức là họ phải trải qua bậc tiểu học và trung học phổ thông.
        Sinh viên là những con người ham học hỏi, muốn vượt ra khỏi cái tôi cá nhân của mình để đem tất cả con người và trí tuệ của họ để họ được phục vụ co người. Họ là những người luôn nghĩ đến cuộc sống và tương lai của họ nói riêng và cuộc sống của mọi người xung quanh nói chung. Họ là những con người trẻ, họ muốn thu thập những kiến thức, những giá trị mà cuộc sống của họ muốn tiếp nhận từ những con người có khả năng truyền đạt lại cho họ những gì mà họ còn thiếu trong môi trường phổ thông.
3/ Cuộc sống họ thế nào
        Cuộc sống sinh viên có nhiều khó khăn về mọi mặt: Kinh tế, đời sống xã hội, đối mặt với nhiều tệ nạn xã hội, sống một nơi không có người thân, cha mẹ, làng xóm và bạn bè quanh. Với tất cả những khó khăn đó làm cho cuộc sống sinh viên có nhiều những nỗi bất hạnh nhất, làm cho họ từ phải lo xoay sở cho cuộc sống mới của họ được ổn định và có cơm ăn cho qua ngày để ngày ngày đến trường thu nhận những vốn kiến thức bao la mà chính bản thân họ đang muốn khao khát được tiếp nhận và làm hành trang cho họ bước vào một đời sống mới.
        Cái khó khăn nhất mà mỗi người sinh viên đều có đó là sự xa nhà. Xa mai nhà thân thương mà đã gắp bó với họ xuất bao nhiêu tháng năm. Từng ngày từng ngày sống của họ, từ khi chào đời cho đến ngày hôm nay đã để lại trong họ biết bao kỉ niệm, nhưng nhận thức nhỏ nhoi đó đã làm nên tấm hình hai này, và làm chọ họ lớn khốn. Giờ này đứng trước một thể giới xung quanh hoàn toàn mới lạ, với cuộc sống mới, môi trường mới, làm sao họ có thể đứng vững được trước bao những khó khăn đó.
        Ngày còn trong mái trường gia đình có biết bao sự bao bọc, vỗ về. Cha mẹ chính là người luôn lo cho họ những bữa cơm, áo mặc. Mỗi khi gặp chuyện gì thì có gia đình bao bọc và cũng là chỗ dựa cho mỗi ngươi. Ngươi xưa thường nói “đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ, gánh nặng cuộc đời khồng ai khổ bằng cha”. Câu nói này dường như đi vào lòng mỗi người và vẫn còn vang mãi cho đến tận cùng. Câu nói này đối khi ta không thể nhận ra được khi ta đang còn ở trong mái với sự bao bọc đó nhưng khi xa gia đình thì câu nói này mới có ý nghĩa đến ngần nào. Cái đặc biệt khi cuộc sống mới của họ không có sự bao bọc đó, họ chỉ biết cậy dựa vào xã hội, những người lãnh đạo, đó là những người có thể lo cho họ trong cuộc sống mới này họ cảm thấy bình an và hạnh phúc nhất. Nhưng thực chất họ có được bảo vệ bằng chính những gì mà họ đang mong muốn không. Không những không được bảo vệ nhưng còn gây ra biết bao những nỗi dau cho thương cho các bạn.
Khi còn ở trong một gia đình họ không cảm thấy xã hội thực sự đã lo cho họ nhưng khi trình độ nhận thức của họ đã có để họ nhìn ra thực chât của xã thì có biết bao những điều mà họ tưởng là bình an nhưng đã làm cho họ phải vỡ mộng bởi biết bao những niềm ước muốn và hy vọng.
Họ đã không muốn sống trong một sự thật bị vùi lấp mãi mà không có gì có thể ngoi lên được, chính con người này đã lỗi ngược dòng để tìm lại những gì là chân lý đang bị vùi lấp để đem cái đó ra ánh sáng cách nhanh nhất.
Với biết bao trước mắt các bạn đang phải đối diện nhưng họ lại phải đối diện với một cái mà biết bao nhiều người có thể làm cho xã hội này thêm tươi sáng hơn thì đã làm cho họ vỡ tưởng cách nhanh nhất và làm họ cảm thấy thất vọng. Dù phải đối diện với biết bao khó khăn đó thì họ cũng không thể sống mãi trong một xã hội chân lý luôn vùi lấp, họ đã có một cuộc lội ngược dòng bất chấp tất cả miễn sao chân lý được đưa ra ánh sáng.
Cho dù họ không có cơm ăn áo mặc nhưng họ cũng không thể để cho những thứ đó làm lu mừ sức mạnh của tuổi trẻ.
Cho dù họ có sống nay đây mai đó nhưng đất nước, mọi người xung quanh mãi luôn là nhà, là cha mẹ và anh em của họ.
Cho dù họ là một người nhỏ bé, thấp hèn nhưng cũng không thể để cho chân lý đó phải qua đi một cách vô vọng.
Chính những nghi lực này họ đã đứng lên để bảo vệ chân lý. Cho dù có gặp gian nan thử thách, cho dù có phải ngồi tù mà chân lý được sáng tỏ thì họ cũng cảm thấy vui và hạnh phúc. Vào tù vì sự thật, lẽ ngay thì có muôn người cảm phục. Người ta thường nói vào tù vì đi ngược lại với những gì là của xã hội, những tệ nạn xã hội điều đó là điều đương nhiên. Có ai bảo vào tù vì chân lý đâu nhưng chính hình ảnh và lời nói của phương Uyên và Nguyên Kha đã nói lên chân lý đang bị vùi lấp và họ vào tù vì những con người cấp cao là những người làm chủ đât nước đang vùi dập chân lý để cho bóng tối họ được ngự trị.
        Qua bài này, tôi muốn gửi đến toàn thể các bạn trẻ, hãy đứng vững, tìm đến với những chân lý. Một chân lý đang ngày một vùi dập chứ đừng luôn sống trong một bóng tối mà mình biết mà không làm chứng cho chân lý đó. Hãy là chính bạn để cuộc sống không những cho các bạn mà cho cả một thế hệ tương lai và những thế hệ sau sẽ tiếp nối mỗi người trong chúng ta.
       

Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

KINH NGHIỆM TÔN GIÁO CHUẨN BỊ ĐÓN NHẬN MẶC KHẢI “BIẾN CỐ ĐỨC KI-TÔ”

Anton Nguyễn Công Chính
I/ Dẫn Nhập
        Trong cuộc sống con người nói chung, trước khi bắt đầu làm một công việc gì đều có khoảng thời gian để chuổn bị. Khoảng thời gian này, giúp con người định hướng rõ cần chuẩn bị những gì cho việc sắp tới. Thời gian chuổn bị có thể kéo dài hay ngắn tùy thuộc vào công việc mình dự định làm. Như Chúa Giê- su nói “quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không” (Lc 14,28). Qủa thế, đối với một công việc bình thường của con người cũng phải có thời gian ngồi lại để tính toán. Đối với “Biến Cố Đức Ki-tô” là cả một công trình lớn lao, thì việc chuổn bị để đón chờ càng lớn hơn rất nhiều lần. Trong Kinh Thánh, Cựu ước chính là sự chuổn bị để đón “Biến Cố Đức Ki-tô”. Những gì được nói trong Cựu ước như là lời tiên báo công cuộc của Đức Ki-tô sẽ đến và những khó khăn trong công cuộc của Ngài.
        Để nói một cách rõ ràng Cựu ước là lời tiên báo cho Tân ước, tất cả quy chiếu về Đức Ki-tô thì có rất nhiều chi tiết được nói đến nhưng con xin được quy lại 4 điểm sau: 1, Kinh nghiệm sa ngã báo trước việc Ngôi Lời Nhập Thể. 2, Kinh nghiệm những khó khăn trong lời rao giảng của các ngôn sứ báo trước những khó khăn trong lời rao giảng của Chúa Giê-su. 3, Kinh nghiệm những việc làm và những phép lạ của các Ngôn sứ báo trước các phép lạ của Chúa Giê-su. 4, Kinh nghiệm vượt qua biển đỏ dân It-ra-el báo trước cái chết và sự Phục Sinh của Đức Ki-tô. Trong 4 điểm này hầu có thể mang lại cái nhìn chung nhất và sự xuyên xuất trong trường trình cứu độ của Thiên Chúa. Tất cả nói lên một tình yêu nhưng không mà Thiên Chúa dành cho nhân loại nói chung và con người nói riêng.
II/ Nội Dung
1/ Khái niệm:
a/ Kinh Nghiệm: Để có một khái niệm rõ ràng về Kinh Nghiệm quả là một điều khó khăn. Có nhiều lối nói về Kinh Nghiệm theo tác giả Gerard OCollins.S.J. Kinh nghiệm gợi lên một sự tiếp súc trực tiếp với ai hoặc với một vật nào đó [1]. Việc gặp gỡ trực tiếp này theo tác giả Gerard O’Collins.S.J được nâng lên một tầm cao mới, khi ta đọc một cuốn sách nào đó. Bất kể vai trò của ta có chủ động hoặc thụ động hơn trong một kinh nghiệm nào đó, thì cả hai trường hợp trên, ta vẫn trực tiếp gặp gỡ một đối tượng hoặc nhân vật nào đó. Tác giả Gerard O’Collins.S.J lấy ví dụ của việc đọc sách. Khi ta đọc sách của một tác giả nào đó, chính là lúc ta gặp gỡ tác giả đó qua tư tưởng. Đó chính là việc di chuyển từ việc biết về người này sang việc biết tác giả của cuốn sách nhờ việc tiếp xúc [2]. Đây cũng là điều quan trọng đối với con người ngày hôm nay. Ta không được tiếp xúc trực tiếp với Thiên Chúa nhưng qua những gì được ghi trong Kinh Thánh mỗi lần ta đọc là ta được tiếp xúc trực tiếp với Ngài. Chính Thiên Chúa đang nói và đang chỉ dậy chúng ta.
b/ Mặc khải: Mặc: kín ẩn; khải: mở ra; Mặc khải: là mở những điều kín ẩn [3]. “Mặc khải của Thiên Chúa được thực hiện dần dần trong lịch sử bằng những hành động và những lời nói. Trước tiên, Thiên Chúa đã mặc khải qua các thụ tạo. Sự hoàn hảo của ngài được diễn tả qua sự hoàn hảo của vạn vật mà Ngài đã sáng tạo, qua chân, thiện, mỹ của chúng (x. Kn13,5; GLHTCG 41). Tiếp đến, Ngài mặc khải cho dân It-ra-el được Ngài chọn làm dân riêng, ban cho họ Lề Luật và dậy bảo họ qua các tiên tri. Vào thời sau hết, Thiên Chúa tỏ mình ra và thông ban chính mình cách trọn vẹn cho nhân loại qua con một của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô (x. Dt 1,1)” [4].
2/ Mối Tương Quan Giữa Kinh Nghiệm Tôn Giáo Đối Với Biến Cố Đức Giê-su Ki-tô
a/ Kinh nghiệm sa ngã báo trước Ngôi Lời Nhập Thể: Đỉnh cao công cuộc tạo dựng của Thiên Chúa là làm nên con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Ban cho con người có sự tự do và quyền trên tất cả muôn loài Ngài đã dựng nên. Nhưng con người đã lạm dụng tự do của mình để phạm tội chống lại Thiên Chúa và kiêu ngạo muốn bằng Thiên Chúa. Mặc dù vậy Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi con người và tiếp tục ban ơn cứu độ cho con người, để mong con người trở về với tình yêu ban đầu mà Ngài đã làm nên. Lúc Thiên Chúa ra án phạt cho con người và nguyền rủa sự dữ. Thiên Chúa đã khơi lên niềm huy vọng cứu thoát và mở ra một tương lai cho con người “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng dõi người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Điều này cho ta thấy rõ thân phận và nguồn gốc của Đức Giê-su, phá vỡ những nghi ngờ và những câu hỏi đặt ra để hỏi về thân phận Đức Giê-su. Qua trung gian người phụ nữ, Đức Ki-tô đã đến để ở với con Người và cứu thoát con người. Ngài đến không phải bởi người nam nhưng qua Chúa Cha và thực hiện sứ vụ Chúa Cha trao phó. Trải qua dòng lịch sử, thân phận Đức Giê-su vẫn là một điều bí ẩn nhất và gây nhiều thắc mắc cho giới lãnh đạo thời bấy giờ. Với con mắt thường thì ta không thể nào giải thích rõ đích đáng thân phận của Người nhưng với con mắt đức tin ta có thể biết được nguồn gốc tận cùng của Ngài. Không phải ơn cứu độ chỉ bắt đầu có khi loài người sa ngã nhưng ơn cứu độ đã có từ muôn đời. Đỉnh cao ơn cứu độ chính là Ngôi Lời Nhập Thể. Chính biến cố này cho ta thấy tình yêu lớn lao mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại. Cũng chính biến cố này cho thấy sự dao duyên giữa trời và đất được gắn kết với nhau đó là “Thiên Chúa ở với con người” (x. Mt 1,23). Tất cả những gì người ta đặt ra cho Chúa Giê-su nhằm tìm ra thân phận đích thực của Người đều là cách suy nghĩ và tìm tòi của con người tội lỗi mà thôi. Để hiểu một cách rõ ràng về Ngài ta nên trở về với kinh nghiệm sa ngã của con người. Kinh nghiệm nguyên thủy được trao ban trong mọi hành động, phản ứng, hiểu biết, ước muốn, cảm xúc và biểu tượng hóa. Ta tìm trong mọi hoạt động của con người, một nền tảng, một chân trời và một mối tương quan tâm tuyệt đối và chung cuộc nơi Đức Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể [5].
b/ Kinh nghiệm lời rao giảng của các Ngôn sứ báo trước lời rao giảng của Chúa Giê-su: Các Ngôn sứ là những người thay quyền Chúa để lãnh đạo dân. Chính Chúa Ki-tô hoạt động trong các Ngôn sứ và những lời các Ngôn sứ rao giảng “thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dậy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ” (Dt 1,1). Các ngôn sứ như là phương tiện để mang ơn Chúa đến cho dân của Người. Những khó khăn trong lời rao giảng của các ngôn sứ như là kinh nghiệm báo trước những khó khăn trong lời rao giảng của Chúa Giê-su. Tất cả các ngôn sứ đều mang trên mình hai điều, hai điều này xác định được đâu là ngôn sứ giả và đâu là ngôn sứ thật: Thứ nhất là giáo dục và gìn giữ dân Chúa trung thành trong đạo thờ Đức Chúa và điều thứ hai đó là chuổn bị và hướng dẫn dân dần dần tới thời sung mãn để họ lãnh nhận mặc khải tuyệt đỉnh nơi Đức Ki-tô, vị ngôn sứ sẽ vượt trên mọi ngôn sứ [6]. Sư mạng của các ngôn sứ ở trong tay Thiên Chúa, chính Ngài đã dùng các ngôn sứ để Người được tiếp xúc trực tiếp với dân. Kinh nghiệm những lời rao giảng của các ngôn sứ thấy được sứ mạng lời rao giảng của Chúa Giê-su sau này. Kinh nghiệm cuộc hôn nhân của ngôn sứ Hô-sê nói lên cuộc hôn nhân giữa Đức Chúa và It-ra-el. Với sự yêu thương và dìu dắt của Thiên Chúa nhưng dân vẫn không nhận ra được tình yêu mà Thiên Chúa dành cho dân. Mỗi khi gặp những thử thách gian truân thì họ đều đi tìm các thần khác để thờ. Dân It-ra-el được ví như là một cô gái điếm. Qua đó cũng nói lên sứ mạng của Đức Ki-tô quả là một điều khó khăn, với sự cứng lòng tin của họ thì tất cả những lời giảng dậy của Chúa Giê-su sau nay không ăn nhằm gì. Không vì thế mà Thiên Chúa nản lòng, bỏ cuộc. Ngài vẫn tiếp tục yêu thương và dìu dắt mặc dù thấy trước mắt lòng dân như vậy. Điều này như là một kinh nghiệm được tiên báo cho ngôn sứ I-sa-i-a về những khó khăn trong lời rao giảng. Sứ vụ của I-sa-i-a là dịp cho những người It-ra-el đã chai cứng sẵn sàng chai cứng thêm. Chai đá thêm là hậu quả, chứ không phải kết quả của lời giảng. Thiên Chúa không muốn điều đó, nhưng Người biết trước tự do của con người sẽ đi đến chỗ đó. Nghĩa là điều trai đá đó chắc chắn thể nào cũng xẩy ra; Chúa đã nhìn thấy nó rồi, và Chúa báo cho ngôn sứ biết, như là một kiểu nói châm biếm một hậu quả nhân dịp mà có, nhưng từ ngữ Do Thái đã diễn tả như chủ đích ngôn sứ phải nhắm[7]. Tin mừng Mát thêu cũng nói rõ về sứ vụ cùa Chúa Giê-su đến. Ngài đã thấy được điều này và tiên báo cho các môn đệ của người biết về sứ vụ khó khăn mà các môn đệ sẽ gặp “Anh em đừng tưởng Thầy đến đem bình an cho trái đất, Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo. Qủa vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa con trai với cha, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng” (Mt10.34-35). Từ đó thấy được, các ngôn sứ như là người dọn đường để cho Chúa Cứu Thế Đến và tiên báo cuộc đời sứ vụ của các ngôn sứ tượng trưng cho cuộc đời và sứ vụ của Chúa Giê-su sau này.
c/ Kinh nghiệm những việc làm và những phép lạ của các Ngôn sứ báo trước các phép lạ của Chúa Giê-su:  Mô-sê là người được Thiên Chúa chọn để cứu dân người thoát khỏi Ai-cập. Thiên Chúa đã dùng ông như là khí cụ để làm những điều Pha-ra-ô thấy và tha cho dân của Người. Tất cả mọi việc Thiên Chúa đều có thể làm được để cứu trực tiếp dân nhưng Thiên Chúa đã không làm như thế vì con người có quyền tự do. Thiên Chúa không muốn cướp đi tự do của con người dù đó là người đê hèn và tồi tệ nhất. Trải qua chín tai ương Thiên Chúa làm qua ông Mô-sê và chín lần xin tha thứ của Pha-ra-ô, những lần đó ông đều nuốt lời và không chịu buông thả cho dân của Người. Qua đó nói lên sự cứng lòng của con người. Cách đặc biệt như là kinh nghiệm báo trước sứ vụ của Chúa Giê-su sau này. Mặc dù Ngài đã làm nhiều phép lạ nhưng lòng con người vẫn chai đá và không chịu tin. Mãi đến tai ương thứ mười các con đầu lòng bị giết, Pha-ra-ô mới chịu tha và chịu để cho dân It-ra-el đi “Đang đêm nhà vua triệu ông Mô-sê và ông A-ha-ron đến và bảo: các người lẫn con cái It-ra-el, đứng lên, đi ra, không được ở giữa dân ta nữa! đi mà thờ phượng Đức Chúa như các người đã nói!” (Xh 12,31). Không phải ra khỏi Ai-cập dân It-ra-el tìm thấy sự sung mãn nơi Thiên Chúa luôn. Một chặng hành trình dài dân It-ra-el sẽ phải chiến đấu. Như là một sự thử thách nhằm tô luyện sự kiên nhẫn và lòng trung thành của dân It-ra-el. Khi nói đến kinh nghiệm của dân It-ra-el với Thiên Chúa, ta không thể quyên Kinh Nghiệm trong sa mạc. Trong sa mạc khô căn và nóng bỏng, con người cảm nhận được thấm thía cái bé bỏng, vô nghĩa của mình, nhưng đồng thời cũng ý thức được sự cao cả và quyền năng của Thiên Chúa và quy hướng về Ngài. Do đó, sa mạc vừa là nơi thử thách sức chịu đựng, vừa là nơi con người ý thức được các giá trị siêu việt và gặp gỡ Thiên Chúa [8]. Khi dân It-ra-el đi trong sa mạc là một kinh nghiệm báo trước việc Chúa Giê-su trước khi bắt đầu cuộc đời rao giảng, Ngài cũng vào sa mạc để ăn chay và cầu nguyện với Chúa Cha xuất 40 ngày. Trong sa mạc hoang vu này, Ngài cũng chịu những cơn cám dỗ như: Bánh ăn, Quyền lực, Vương quyền. Nhưng Ngài đã chiến thắng tất cả. Các phép lạ được thực hiện qua trung gian các ngôn sứ và trên chính cuộc đời rao giảng của Chúa Giê-su nói lên 3 điểm: Thứ nhất là bày tỏ lòng thương xót của Chúa. Thứ đến là bày tỏ dấu chỉ vương quyền của Thiên Chúa. Thứ ba là biểu lộ căn tính của Đức Giê-su [9].
d/ Kinh nghiệm vượt qua biển đỏ dân It-ra-el báo trước cái chết và sự Phục Sinh của Đức Ki-tô: Biến cố vượt qua biến đỏ là biến cố quan trọng trong lịch sử it-ra-el. Đánh dấu một bước ngoặt mới cho cuộc đời dân It-ra-el. Kể từ đây dân thoát khỏi cảnh truy đuổi của Pha-ra-ô bên ai cập. Đoạn tuyệt với những áp bức mà Pha-ra-ô đã đè lên. Kể từ đây dân được tự do và thuộc trọn về Chúa. Thiên Chúa qua trung gian ông Mô-sê đã làm cho “Nước rẽ ra, và con cái It-ra-el đi vào giữa lòng biển khô cạn, nước sừng sừng như tường thành hai bên tả hữu” (Xh 14,22). Với biến cố biển đỏ này cũng báo trước cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Chúa Ki-tô sau này. Qua biến cố này, dân It-ra-el nhận biết rằng Thiên Chúa đã bày tỏ tình yêu đặc biệt với họ. Thiên Chúa đã giải thoát họ khỏi cảnh áp bức nô lệ (Xh 3,7-8). Thiên Chúa là Đấng trung tín với lời hứa cùng các tổ phụ (Xh 6,5-6) [10]. Qua biến cố này cho ta thấy, dường như dân It-ra-el được chết đi và sống lại. Chết với những tư tưởng, việc làm bên ai cập, chết đi với chính con người thống trị của vua A-cập. Từ đó, để đón nhận một con người mới, đón nhận một sức sống mới. Sức sống này không phải do người thế ban cho nhưng là lấy sức sống từ Thiên Chúa. Qua cây gậy mà Thiên Chúa dùng qua ông Mô-sê giơ lên để nước rẽ ra cho dân đi qua nói lên cái chết của Người trong Tân ước. Qua Thập giá nói lên một tình yêu duy nhất. Chúng ta sẽ được gụp lặn trong cái chết của Ngài và được đón nhận sự sống lại cùng Ngài. Đi dưới lòng biển đỏ là đi trong cái chết của Ngài và được sống lại với Ngài như là một sự lên bờ sau những ngày dưới lòng biến tức dưới cái chết của Ngài để được hưởng vinh quanh với Ngài trong ngày sau hết. Chính nhạc sĩ Lm Kim Long có viết “nhìn Chúa đẫm máu trên đồi cao từng đoàn người anh dũng tiến lên pháp trường”[11]
III/ Kết luận
Qua những trình bày trên, cho con nhận thấy. Ơn cứu độ là một sự xuyên xuất của Chúa Ki-tô. Cũng cho ta thấy ơn cứu độ của Ngài được thực hiện cách tiệm tiến và cũng nói lên rằng Mặc Khải cũng được Thiên Chúa tỏ bày cách tiệm tiến. Việc mạc khải tuân theo một đường lối sư phạm tiệm tiến: Một tiến trình từ chỗ bất toàn đến chỗ hoàn toàn, giống như “thầy giáo” dẫn học trò từ bài dễ đến bài khó [12]. Thiên Chúa mặc khải qua những biến cố lịch sử (các hành động can thiệp vào lịch sử của một dân tộc hoặc của các tổ phụ và ngôn sứ), chứ không phải qua các bản tuyên ngôn (sấm ký, tín điều). Lich sử của các cuộc mạc khải kéo dài trong một khoảng thời gian hơn kém 20 thế kỉ, với những mốc điểm chính sau: Các Tổ phụ khoảng 1900-1700 tcn. Xuất hành và lữ hành trên sa mạc, với cao điểm là giao ước Sinai TK XIII. Chinh phục đất Pa-let-tin tk XII-XI. Thời quân chủ (khoảng năm 1020-586). Sự chia đôi bắc nam (It-ra-el và Giu-da vào năm 928). Thời lưu dầy (587-539). Thời khôi phục Giu-đa 538 tcn đến năm 70 scn. Mỗi thời kì đánh đấu một kinh nghiệm mới về tương quan với Thiên Chúa, và cũng mang dấu ấn của sự thay đổi nếp sống văn hóa chính trị: Du mục hay canh nông, bộ lạc hay quân chủ, nô lệ hay tự do, độc lập hay lưu vong. Dù sao, trong xuất dòng lịch sử, những biến cố đã in đậm hơn hết vào kí ức tập thể: ơn gọi tổ phụ Ap-ra-ham, cuộc xuất hành và lưu đày [13].
Tài Liệu Tham Khảo
1/ Kinh Thánh Trọn Bộ. Các giờ Kinh Phụng Vụ
2/ Thần Học Căn Bản. Gerard O’Collins.S.J.
3/ Thần Học Mac Khải. Lm Giu-se Phan Tấn Thành.
4/ Đức Giê-su Thành Na-da-ret. Joseph Ratzinger. Cả 3 cuốn.
5/ Các Sách Ngôn Sứ. Lm Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao, O.P.
6/ Từ Điển Công giáo 500 từ. Hội Đồng Giám Mục Việt nam.
7/ Thần Học Kinh Thánh. R. Vaticano.
8/ Các Mẫu Thức Mạc Khải. Avery Dvlles Sj.
9/ Học Hỏi Hiến Chế về Mạc Khải Của Thiên Chúa. Lm. Aug Nguyễn Văn Trinh.
10/ Nguyên Lý Của Thần Học Công Giáo. Joseph Ratzinger.






[1] Gerard OCollins.S.J. Thần học căn bản. Nhà xuất bản tôn giáo. Tr73.
[2] Gerard O’Collins.S.J. Thần học căn bản. Tr74.
[3] Từ Điển Công Giáo 500 từ, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Tr229.               
[4] Từ Điển Công Giáo 500 từ, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Tr230.     
[5] Gerard O’Collins.S.J. Thần học căn bản. Tr 101.
[6] Lm. Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao, O.P. Các Sách Ngôn Sứ. 2006. Tr 19.
[7] Lm. Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao, O.P. Các Sách Ngôn Sứ. 2006. Tr 99.
[8] R.Vaticano. Thần Học Kinh Thánh. Những đề tài tổng quát. Tr 308.
[9] Lm Phan Tấn Thành O.P. Thần Học Mạc Khải. Học Viện Đa Minh 2011. Tr 142.
[10]Lm Phan Tấn Thành O.P. Mầu Nhiệm Thiên Chúa. Học Viện Đa Minh 2012. Tr.108.
[11] Sách hát cộng đồng. Tr482.
[12] Lm Phan Tấn Thành O.P. Mầu Nhiệm Thiên Chúa. Tr. 107

[13] Lm Phan Tấn Thành O.P. Mầu Nhiệm Thiên Chúa. Tr.110