Thứ Năm, 8 tháng 9, 2016
Thứ Tư, 7 tháng 9, 2016
GIONG HAT TUYET VOI
Thứ Sáu, 3 tháng 6, 2016
NĂM XƯA TRÊN CÂY SỒI
Vượt Lên Số Phận
Thứ Hai, 23 tháng 5, 2016
Thứ Năm, 5 tháng 5, 2016
ÂN SỦNG CỦA THIÊN CHÚA VÀ Ý CHÍ TỰ DO CỦA CON NGƯỜI CÙNG HOẠT ĐỘNG
Anton Công Chính
Con người đang sống trong một xã hội
phát triển về mọi mặt. Những trào lưu của xã hội đã làm cho con người thay đổi
cách sống, cách suy nghĩ và cách hành động. Chính vì thế đã đẩy con người đến việc
tự khẳng định chính mình, cho mọi thứ xung quanh là cái để phục vụ mình. Từ những
suy nghĩ đó đã đẩy Thượng Đế ra khỏi suy nghĩ của họ, coi Thượng đế đã can thiệp
và làm mất tự do của họ. Hạnh phúc con người đạt được không phải là Thượng đế
ban tặng nhưng đó chính là nỗ lực của chính bản thân đã đạt được. Con người có
thể làm tất cả để phục vụ cuộc sống này và con người được hưởng những gì mà họ
đã làm ra. Những thành công hay những thất bại trong cuộc sống tự con người có
thể định đoạt được mà không cần đến sự trợ giúp từ “ơn trên” ban tặng. Thượng Đế
ở trên cao thì cứ ở trên cao chứ đừng để ý đến những chuyện dưới đất này và ngược
lại những người đang sống trong thế giới dương gian hãy sống và làm những gì ở
dương gian, đừng suy nghĩ gì tới những gì ở trên cao, nếu không sẽ đánh mất đi
sự tự do nơi chính bản thân. Bên cạnh đó, Phật giáo đã đề cao việc tự giải
thoát chính mình mà không cần đến Đấng Siêu Việt. Với họ không ai có thể cứu được
bản thân bằng chính bản thân họ, mỗi người phải tự cứu lấy bản thân mình trước
thì mới có thể cứu được người khác. Vì thế, mỗi người Phật giáo ra sức để kiến
tạo hạnh phúc và tìm cách để tự mình có thể đạt đến Niết Bàn, nơi mà không còn đâu
khổ chi phối. Không những Phật giáo mà ngay cả một số người Ki-tô giáo cũng có
những người quan niệm Ân sủng của Thiên Chúa đã đánh mất đi hoặc giảm thiểu ý
chí tự do của họ. Chính vì thế, có những người đã sống rất buông xuôi mà không
cần đến sự cộng tác và tìm kiếm Nước Trời nơi Thiên Chúa. Để rồi yên trí trong
một suy nghĩ, dù mình có tội lỗi như thế nào thì với ân sủng của Thiên Chúa
cũng không làm cho ta xa rời Nước Trời là bao, tất cả rồi sẽ được cứu rỗi.
Đứng trước những vấn nạn như thế, sau
khi tìm hiểu đề tài “Nguyên Tội, Ân Sủng và Sự Công Chính Hóa”, đã cho người viết
những bằng chứng để xác định Ân Sủng của Thiên Chúa và Ý Chí Tự Do của con người
luôn hoạt động cùng nhau chứ không có sự tách biệt hay lấn át trên nhau để rồi
cái này con, cái kia mất.
1/ Ân Sủng của Thiên Chúa
Nói đến Ân sủng của Thiên Chúa là nói đến
tình yêu nhưng không mà Thiên Chúa ban tặng
cho nhân loại. Chính nhờ ân sủng mà con người sau khi phạm tội đã ăn năn và được
trở về với tình yêu của Thiên Chúa. Ân sủng được Thượng Đế ban cho các tín hữu để
chia sẻ vinh quang của Ngài vinh viễn [1].
Ân sủng là ân huệ Thiên Chúa ban một cách tự do và vô điều kiện, giúp con người
tham dự sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi và có khả năng hành động vì tình yêu
dành cho Ngài [2]. Quả
vậy, "ân sủng là sự sinh ra trong một cuộc sống mới, cuộc sống của Thần
Khí, Đấng ban sự sống. Kinh nghiệm về sự sống này là kinh nghiệm của Thánh
Linh. Chế độ của ân sủng là chế độ của Thần Khí. Thần khí, ân huệ tuyệt vời của
Thiên Chúa, minh chứng cho tâm trí chúng ta, bằng một kinh nghiệm chắc chắn rằng,
ân sủng biến chúng ta thành con cái Thiên Chúa, được quyền gọi Thiên Chúa là
Cha”(Rm 8,15-16). Chính vì thế, ân sủng của Đức Ki-tô là ân huệ nhưng không,
qua đó Thiên Chúa ban cho chúng ta sự sống của Người. Nhờ Thánh Thần, Thiên
Chúa ban sự sống đó vào linh hồn để chữa trị tội lỗi và thánh hóa chúng ta [3]
2/ Ý Chí Tự Do của con người
Trước
hết ý chí tự do gắn liền với bản tính của con người. Ngay cả khi con người phạm
tội, ý chí tự do cũng không bao giờ mất đi, dường như ý chí tự do tiềm ẩn trong
sâu thẳm mỗi người mà chỉ người đó mới có thể biết và thấu hiểu được. Giáo lý về
“ý chí tự do” do James Aminius (1560-1609), người Hòa Lan khởi xướng hay còn được
gọi là học thuyết của Aminius đã cắt nghĩa về ý chí tự do của con người như sau
“Ý chí: mô tả năng lực của tâm trí con người mà nhờ đó con người có thể định hướng
cho tư tưởng hay hành động của mình. Từ ngữ “tự do” có nghĩa là không bị lệ thuộc,
không bị kiểm soát, hay không bị hạn chế bởi bất cứ điều gì. Như vậy ý chí tự
do là khả năng rất đặc biệt mà Thiên Chúa phú cho con người, bởi nó, con người
được tự do chọn lựa và quyết định. Thiên Chúa đã tạo dựng con người rất đặc biệt.
Chúng ta được tự do chọn lựa để vâng lời hoặc không vâng lời Ngài. Thiên Chúa
muốn con người vâng lời Ngài bởi sự tự nguyện chứ không bị tác động bởi một quyền
lực nào khác” [4]. Ý
chí tự do chọn lựa là yếu tố để hành vi con người trở thành hành vi nhân linh, “hành
vi đã được chọn cách tự do theo phán đoán của lương tâm” (GLHTCG 1749). Ý chí tự
do chỉ đạt tới mức hoàn hảo khi con người biết quy hướng về Thiên Chúa là nguồn
hạnh phúc đích thực của họ (x. GLHTCG 1731) [5].
Từ những trích dẫn đó ta có thể nói ý chí tự do là khả năng chọn lựa mà mỗi người
sinh ra cùng với nó. Ý chí tự do chính là ý chí khi nó thuộc về bản tính thiêng
liêng. Nó không bao giờ mất đi, ngay cả khi ý chí ở trong tình trạng nô lệ của
tội [6].
3/ Mối Tương quan Ân Sủng và Ý Chí Tự Do
cùng hoạt động trong con người.
Ân sủng của Thiên Chúa và ý chí tự do của
con người có mối tương quan mật thiết với nhau. Ân sủng của Thiên Chúa và ý chí
tự do của con người không thể tách rời nhau, nếu tách rời hai phạm trù này
riêng rẽ ra thì cũng giống như con cá tách ra khỏi nước. Tương tác giữa ân sủng
của Thiên Chúa và ý chí tự do của con người làm cho tình yêu của Thiên Chúa được
tỏ lộ cách rõ ràng cho nhân loại và nhân loại nhận ra được tình yêu nơi Thiên
Chúa. Chính tình yêu, mà Thiên Chúa đã làm cho mọi sự từ không mà có và ngược lại
từ những thụ tạo Ngài đã làm nên nhận ra và hưởng lấy tình yêu Ngài ban tặng.
Quả vậy, trong tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa với con người và con người
với Thiên Chúa đã tạo nên một sự hợp nhất trong tình yêu. Khi con người đã lạm
dụng tự do Chúa ban để phạm tội, Thiên Chúa không bỏ rơi con người nhưng đã ban
chính Con Một yêu dấu của Ngài xuống để cứu độ nhân loại và đưa nhân loại trở về
với Ngài (x. Rm 8,32). Thực vậy, sự tội đã làm cho con người tốt lành ban đầu
ra hư hoại, chính sự tội này đã làm cho con người xa cách Thiên Chúa về thể xác
nhưng trong sâu thẳm cõi lòng con người luôn quy hướng về Thiên Chúa. Sự tội đã
làm cho ý chí tự do của con người bị tổn thương. Chính vì thế, nhờ ân sủng của
Thiên Chúa, ý chí tự do của con người luôn tìm cách hướng về Thiên Chúa để đẩy
lui những sự tội ra xa.
Ân sủng là quà tặng nhưng không mà Thiên Chúa
ban cho nhân loại, nhưng nhân loại luôn tìm cách chống đối và tìm cách lẩn trốn
thì ân sủng của Thiên Chúa không thể đến
được với nhân loại, nên cần có ý chí tự do của con người để đáp trả và tiếp nhận
thì ân sủng đó sẽ đến được với nhân loại nói chung và trực tiếp trên những con
người đó. Ân sủng của Thiên Chúa và ý chí tự do của con người không nằm trên một
bình diện, cũng giống như hai con ngựa kéo cùng một chiếc xe: Sức kéo của con
này làm nhẹ gánh cho con kia bao nhiêu thì con kia cũng phải bỏ sức ra như vậy.
Giữa ân sủng và tự do là hai hoạt động không nằm trên cùng một trật tự, như
Y.de Montcheuil viết: nó không cạnh tranh nhau và có thể chấp nhận rằng cái này
làm cho cái kia hiện hữu. Trong hành động tốt của tôi, tất cả đến từ hồng ân và
tất cả đến từ tự do, vì chính ân sủng làm cho tôi được tự do, không phải để có
thể chọn, nhưng để hành động một cách tự do ngay tại đây và trong giây phút này
[7].
Qua đó cho ta thấy được giữa ân sủng của Thiên Chúa và ý chí tự do của con người
không lấn át trên nhau hay “cái này có và cái kia” không có nhưng là sự bổ trợ
cho nhau để thực hiện trong bản thể người. Các hành động của bản thể người chỉ
là những hành động đến sau của ân sủng Thiên Chúa và ý chí tự do của con người.
Cũng giống như một đứa trẻ để biết thực trạng đời sống của mình trong thế giới
thì cần có những người hướng dẫn và từ đó làm nền cho đứa trẻ biết khám phá những
bí ẩn xung quanh để được tồn tại trong thế giới bao la này. Thánh Augustino đã
cho ta thấy mối tương quan: ân sủng và ý chí tự do của con người không chỉ là
chiếc cầu khả thể nối con người với Thiên Chúa, nhưng còn là sự hảo tâm của một
con người luôn tự hiến. Trước hết nói không phải và không chỉ là một “trung
gian”, ngay cả sau thời Augustino, người ta đã nói tới hồng ân “tạo dựng” và hồng
ân “công chính hóa” như là một cái gì đó tự hiện hữu [8].
Theo đó, ta có thể hiểu Ân sủng của Thiên Chúa và ý chí tự do của con người là
hai phạm trù luôn hoạt động cùng một lúc, được bổ trợ và hỗ trợ nhau để tỏ lộ
ra bên ngoài bằng chính đời sống hằng ngày nơi người ấy, mặc dù những điều thể
hiện ra bên ngoài không thể nào phản ánh hết những gì bên trong đang có. Người
ta thường nói với nhau “Miệng thì nam mô nhưng lòng chất chứa một bồ dao găm”.
Qủa thế, những điều được người ta thể hiện ra bên ngoài không phản ảnh cách hoàn
toàn cái bên trong và ngược lại những người tiếp nhận cũng không thể nào phản ảnh
được cái bên trong để cho người được cho hiểu hết được. Từ đó, ta có thể xác định
ân sủng của Thiên Chúa không làm giảm thiếu ý chí tự do của con người và ý chí
tự do của con người cùng không làm giảm thiểu ân sủng của Thiên Chúa. Qua đó,
ta có thể nói, ân sủng toàn quyền hoạt động, nhưng nó không cưỡng bức con người.
Và con người không phải là một khả thể tĩnh được đặt đối điện với Thiên Chúa,
nhưng là một sự tự do, được dựng nên cho Thiên Chúa, một tự do mà lời mời gọi của
ân sủng làm cho nó được trở nên hiện thực và khiến nó có khả năng hợp nhất với
cái động năng cư ngụ nơi mình [9].
Một câu châm ngôn trong thần học trung cổ, có thể làm sáng tỏ hơn về sự hoạt động
này đó là “ân sủng không hủy hoại thế giới tự nhiên, nhưng hoàn chỉnh nói”. Thực
vậy, niềm tin không rút ra khỏi hoàn cảnh trần thế. Trái lại: niềm tin trả
chúng ta về với nhiệm vụ trần thế cách khẩn trương hơn, vào các giai đoạn mà nó
phải nhập thể trong các nền văn minh và văn hóa xa lạ với đời sống Ki-tô giáo,
hoặc do bởi quá khứ của chúng, hoặc do bởi tính chất mới mẻ của chúng [10].
Augustino
lưu ý rằng Kinh Thánh mặc khải cho chúng ta về tên của Thiên Chúa và Đấng Cứu
Chuộc là Đấng “giàu lòng thương xót”. Ân sủng là một sự trợ giúp cho ý chí tự
do của con người, khi cho nó khả năng cụ thể để trở thành tự do. A-dam trong
tình trạng vô tội đã hành động trong ân sủng, tức là trong khả năng đích thực để
thực hiện những chọn lựa của tự do, nhưng nguyên tổ đã lạm dụng tự do để phạm tội,
và con người đã bị dục vọng thống trị. Augustinô nói rằng, với tội, Adam đã
đánh mất “tự do”. Tuy nhiên, ân sủng không thay thế ý chí tự do, nó chỉ giúp
cho ý chí này có khả năng thực hiện tự do [11].
Trong cuộc tranh luận giữa Augustino và các đan sĩ ở Adrumète và ở Provence vào
lúc cuối đời đã cho ta thấy mối tương quan cơ bản giữa ân sủng và tự do xứng
đáng với toàn bộ sự hiện hữu của con người. Nó ghi dấu sự khởi đầu của đức tin,
hay là sự sám hối đầu tiên, nó tiếp tục theo đuổi suốt cả cuộc đời, nó tái hiện
khi kết thúc cuộc đời nhờ ơn bền đỗ đến giây phút cuối cùng. Như vậy, ân sủng của
Thiên Chúa vá ý chí tự do của con người không bao giờ mất đi, nó đi theo suốt
cuộc đời con người trên dương gian này để bổ trợ và giúp sức con người trong suốt
cuộc đời.
4/ Kết luận
Từ những
tìm hiểu và phân tích trên cho ta xác định quan niệm ân sủng của Thiên Chúa
không làm mất đi hay giảm thiếu ý chí tự do của con người nhưng là nguồn trợ lực
và hướng dẫn con người hoạt động. Mối liên hệ này cũng giống như “Giê-su học”
và “Ki-tô học” phải đi đôi với nhau: Một Giê-su không phải là Ki-tô thì trống rỗng,
và một Ki-tô không phải là Giê-su thì chỉ là huyền thoại[12].
Từ đó cũng giải thích được, con người không thể tự giải thoát chính mình mà cần
có ân sủng của Đấng Siêu Việt, mà với
con người không thể nào biết và thấu hiểu được, cũng giống như con người
không thể nào diễn tả hết những suy nghĩ trong sâu thẳm cõi lòng cho người khác
hiểu thấu được. Ân sủng luôn hoạt động nơi mọi người thiện chí (MV 22). Ân sủng
hoạt động nơi những người vô tình không nhận biết Đức Ki-tô (GH 16). Qủa thật,
ân sủng đang tác động nơi những anh em ly khai (GH 15). Như vậy, ân sủng của Đức
Ki-tô tràn lan trên hết mọi người không loại trừ ai nhờ Giáo hội (GH 8).
[1]
Marguerite Maria Thiollier Chủ
Biên, Lê Diên dịch. Từ điển tôn giáo, Tr 275.
[2] Ủy Ban Giáo
Lý Đức Tin thuộc HĐGMVN, Từ Điển Công Giáo 500 mục từ, NXB Tôn giáo, Tr 9.
[3]
GLHTCG, Số 1999.
[4] www. Giảng giải Kinh Thánh. Net. Sự tiền định của Đức
Chúa Trời và ý chí tự do của con người của Trần Đình Tâm. Truy cập ngày
27/02/2016.
[6] V.GROSSI và B.SESBOUE do Lm Nguyễn Tiến Dưng,AA dịch.
Giáo trình” Nguyên tội Ân sủng và sự công chính hóa” Tr 243.
[7]
V.GROSSI và B.SESBOUE do Lm Nguyễn Tiến Dưng,AA dịch.
Giáo trình” Nguyên tội Ân sủng và sự công chính hóa” Tr 246.
[8] V.GROSSI và B.SESBOUE do Lm Nguyễn Tiến Dưng,AA dịch.
Giáo trình” Nguyên tội Ân sủng và sự công chính hóa” Tr 243.
[9]
Lm Phero Trần Ngọc Anh. Nhân học
Ki-tô giáo tập 2. Nxb Phương Đông , Tr 363.
[10] La foi des Catholiques, Nhóm phiên dịch:
Phạm Minh Thiện, Tống Việt Hệp, Phan Mạnh Trinh. Niềm Tin Của Người Công Giáo.
Nxb Tôn Giáo. Tr 455.
[11] V.GROSSI và B.SESBOUE do Lm Nguyễn Tiến Dưng,AA dịch.
Giáo trình” Nguyên tội Ân sủng và sự công chính hóa” Tr 245.
[12]
Norbefto Nguyễn Văn Khanh, Ofm. Đức Giê-su Ki-tô Ngôi Lời Nhập Thể. Nxb tổng hợp TPHCM. Tr 31.
Thứ Hai, 2 tháng 5, 2016
NGÀN HOA ĐẸP TƯƠI
VÃN HOA CỘNG ĐỒNG
MÙA HOA ĐẸP TƯƠI
THÁNG HOA DANG MẸ
THÁNG HOA DANG MẸ
Chủ Nhật, 10 tháng 4, 2016
SUY NIỆM CON THUYỀN TRUYỀN GIÁO ĐẦU TIÊN TỚI ĐÀNG NGOÀI
Anton Công Chính
Biến cố ngày 19.03.1627 là một biến cố hết
sức quan trọng đối với Đàng Ngoài nói chung và đối với Cửa Bạng, Thanh hóa
nói riêng được đón nhận Tin mừng đầu tiên từ cha Đắc Lộ và cha Marquez .
Qua biến cố này cũng cho con thấy bàn tay quan phòng của Thiên Chúa, chính Ngài
đã dìu dắt và đưa con thuyền của hai nhà truyền giáo trải qua giông tố, bão
bùng trên biển khơi cập bến an toàn. Đây cũng là điều mà con tâm đắc trước khi
con bước chân vào đời sống tu. Dù có khó khăn, gian khổ đến đâu nếu con người
biết cậy trông, bám víu nơi Thiên Chúa thì sẽ vượt qua tất cả. Từ đây cho con
những suy niệm về hành trình từ khi rời bến đậu cho đến ngày cập bến của con
thuyền truyền giáo đầu tiên tới Đàng Ngoài nói chung và cách riêng là Cửa Bạng,
Thanh hóa.
Ngày 12.03.1627 là ngày lên đường của hai cha
Đắc Lộ và cha Marquez từ Ma-cao đi xứ bắc [1].
Như là cuộc hành trình của tổ phụ Ap-ra-ham hay của dân It-ra-en xưa. Cũng thế,
trong cuộc đời rao giảng của Chúa Giê-su, Ngài luôn dùng phương tiện thuyền để
phục vụ công việc rao giảng. Cũng vậy, cuộc hành trình truyền giáo của hai vị đến
Đàng Ngoài cũng bắt đầu với chiếc thuyền. Đây không phải là tàu của Bồ Đào Nha,
với đầy đủ mọi phương tiện để chống chọi với sóng dữ biển khởi. Nhưng đây chỉ
là một con thuyền thô sơ không có gì cả thì làm sao có thể chống chọi được với
thú dữ. Con thử hỏi, nếu đặt con vào trong trường hợp này liệu chừng con có từ
bỏ tất cả để bước xuống con thuyền này không ? Chắc có lẽ, không chỉ riêng con
mà nhiều người khác chắc cũng biện lý do này lý do kia để từ chối việc đi truyền
giáo này. Qủa thực, cuộc hành trình của các Ngài làm con nhớ đến hành trình của
tổ phụ Ap-ra-ham trong sự phó thác nơi Thiên Chúa cách triệt để. Cuộc hành
trình trên biển khơi đối với hai nhà truyền giáo cũng thế, các ngài không mang
gì ngoài tình yêu Đức Ki-tô thôi thúc các ngài, để từ đó các ngài tin tưởng có
bàn tay Thiên Chúa dẫn dắt. Đối với biển khơi thì giống tố bão bùng là chuyện
thường tình và xẩy ra bất cứ lúc nào. Quả thật, điều gì đến cũng đến đối với
chuyến đi của các ngài, sáu ngày thuận buồn suôi gió nhưng bước sang ngày thứ 7
thì giông tố ập đến trên con thuyền bé nhỏ của các ngài [2].
Chắc có lẽ các ngài cũng tìm mọi cách để chống đỡ làm sao cho chiếc thuyền của
mình không bị lật chìm. Nhưng thử hỏi thuyền thô sơ như thế thì làm sao có thể
chống trả được với sức mạnh của gió, của nước, cũng giống như làm sao có thể lấy
trừng mà chọi với đá được. Tất cả chỉ là vô vọng nếu không có bàn tay của Thiên
Chúa. Qủa thật, nếu con người không có niềm tin thì liệu chừng họ có qua khỏi
đêm này không?. Hay cũng chỉ tìm đủ mọi cách chống trả với sức người rồi cũng
bước qua trong vô vọng sức mạnh của gió và nước. Cách riêng đối với bản thân
con vào lúc này chắc có lẽ cũng giống như các môn đệ khi xưa trên biển cùng với
thầy Gie-su mà thôi. Cũng chỉ biết hô hào và dùng sức mình để chống trả lại
giông tố “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” (x. Mc 4,
38). Đối với 2 nhà truyền giáo lúc này
cũng giống như hình ảnh của Chúa Giê-su trên biển, các ngài vẫn bình tĩnh với sự
xác tín đã có Thiên Chúa cứu và chính Ngài sẽ gìn giữ con thuyền của họ “im đi,
câm đi! Gió liền tắt, và biển lặng như tờ” (x.Mc 4,39). Qua biến cố này khơi dậy
lại niềm tin nơi con.
Khi nói đến biển khơi thì ta nghĩ đến sự
rộng lớn bao la. Thử hỏi với sự rộng lớn cùng với giông tố ập đến thì chiếc
thuyền của hai nhà truyền giáo sẽ trôi dạt về đâu, nếu không có bàn tay Thiên
Chúa dẫn dắt. Qủa thật, con thuyền của các ngài cập bến đúng như ý muốn của các
ngài đó là Đàng Ngoài chứ không phải Đàng Trong. Giả như chiếc thuyền của các
ngài tiếp tục trôi dạt vào Đàng Trong thì các ngài lại phải trở lại vị trí ban
đầu để tiếp tục lên đường. Thật vậy, ngay từ thời thầy chí thánh Giê-su đi rao
giảng không có chuyện giá như ở đây, tất cả đều dó thánh ý Thiên Chúa. Điều đặc
biệt trong ngày cập bến trùng với lễ thánh Giuse 19.03. Điều này cho ta thấy
qua trung gian thánh Giu-se, đã gìn giữ và bảo vệ các ngài trong chuyến hành
trình này. Với biến cố này các ngài đã nhận thánh Giu-se làm bổn mạng công việc
truyền giáo ở Đàng Ngoài, cách đặc biệt đối với Cửa Bạng nay thuộc giáo xứ Ba
Làng, Giáo phận Thanh Hóa. Qua trình thuật cho con thấy hành trình truyền giáo
của các ngài giống như cuộc hành trình trong sa mạc của dân It-ra-en xưa. Cuối
cùng dân It-ra-en cũng vào được đất hứa, nơi mà Thiên Chúa đã chỉ định cho dân
của Người. Các ngài trên chuyến hành trình biển khơi cũng giống như các ngài được
thanh luyện, được sống trong mối tương quan với Chúa nay được vào đất hứa với
niềm vui khôn siết. Các tổ phụ xưa khi vượt qua được các biến cố nào cũng đều lập
bàn thờ để cảm tạ và kêu cầu Thiên Chúa để xin Ngài giúp sức “tại đây ông dựng
bàn thờ để kính Đức Chúa và ông kêu cầu danh Đức Chúa” (x. St 12,8). Đối với
hai vị truyền giáo này cũng thế, sau khi cập bến an toàn, các ngài cũng không
quên ơn Chúa nên đã cho dựng một Thánh Giá to trên đỉnh núi gần đó [3].
Việc làm này nói lên lòng biết ơn và xin Chúa tiếp tục dẫn dắt việc truyền giáo
đầu tiên ở nơi mảnh đất này nói riêng và Đàng Ngoài nói chung. Xin Chúa cũng
giúp con biết cảm tạ và cầu xin ơn Chúa cả khi vui lẫn khi buồn.
Người ta thường nói “thiên thời địa lợi
nhân hòa”, nhưng trong hoàn cảnh này có phải là như vậy không?. Điều này có
hoàn toàn đúng hay không cũng không quan trong cho bằng công việc truyền giáo đầu
tiên của các ngài gặp rất nhiều thuận lợi. Khi bắt đầu giảng đạo ở Cửa Bạng,
Thanh hóa: Nhiều người ở An Vực, Vân No xin theo đạo, trong số đó có một thầy
cúng [4].
Một thuận lợi lớn lao nữa cho hai cha đó là khi Chúa Trịnh trong chuyến đi qua
cửa biển, đã nhìn thấy Cây Thánh Gía lớn do hai cha dựng lên và Chúa Trịnh đã
cho mời hai cha đến và đưa về Thăng Long. Tại đây Chúa xây cho một ngôi nhà bằng
gỗ gần phủ chúa [5]. Đối
với vật chất hai cha không lấy làm vui sướng, điều các ngài vui sướng nhất đó
là được phép giảng đạo cách tự do. Còn niềm hạnh phúc, niềm vui sướng nào hơn
điều này nữa đâu. Với sự tự do như thế các ngài đã đem hết sức mình để Lời Chúa
được đến với mọi người. Hai cha đã giảng không biết mệt mỏi, mỗi ngày bốn đến
sáu lần. Buổi tối các ngài gặp gỡ tòng giáo và giải tội. Công sức các ngài bỏ
ra quả thật không uổng chút nào, đến nỗi cả trong hoàng gia cũng có người gia
nhập đạo. Chị Chúa Trịnh Tráng được rửa tội, có tên thánh là Ca-ta-ri-na, khi
trở lại, chị đã lối cuốn được 17 hoàng thân. Trong số đó có mẹ chị. Trong vòng
gần 3 năm các ngài đã rửa tội được hơn 6,700 người [6].
Đây là một con số ngoài sức tưởng tượng của các ngài. Qủa thật, “Đối với loài
người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với
Thiên Chúa mọi sự đều có thể ” (x. Mt 10,27). Cảm tạ Chúa đã ngự giá trên môi
miệng của các ngài để giờ đây con được đón nhận Tin mừng.
Qua những
suy niệm trên cho con một bài học về sự phó thác nơi Thiên Chúa. Chỉ nơi Thiên
Chúa con người mới tìm thấy niềm vui và hạnh phúc đích thực. Con người phải cố
gắng hết mình vào công cuộc sáng tạo của Thiên Chúa, phần còn lại phó thác nơi
Thiên Chúa. Con người chỉ là người trồng cây và vun tưới còn cho sống và phát
triển đó chính là ý Thiên Chúa “Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới
làm cho lớn lên” (1 Cr 3,6). Con người dù gặp thất bại hay thành công cũng đừng
tự hào cho mình là tài giỏi. Nhưng đó chính là thành quả do Thiên Chúa ban tặng
để con người cộng tác với Ngài.
[1]
Lm. Auguttino Nguyễn Văn Trinh,
Lược sử giáo hội việt nam. Tr 75.
[2]
Lm Bùi Đức Sinh,O.P.M.A. Lịch Sử
Giáo Hội Công Giáo. Tr 363
[3]
Lm. Auguttino Nguyễn Văn Trinh,
Lược sử giáo hội việt nam. Tr 75.
[5]
Lm. Auguttino Nguyễn Văn Trinh,
Lược sử giáo hội việt nam. Tr 75.
[6]
Lm. Auguttino Nguyễn Văn Trinh,
Lược sử giáo hội việt nam. Tr 76.
Chủ Nhật, 20 tháng 3, 2016
ĐỨC GIÊ-SU LÀ NGƯỜI THẬT
Anton Nguyễn Công Chính
Đức Giê-su Ki-tô vừa là Thiên Chúa thật,
vừa là người thật, đây là đặc tính niềm tin
Ki-tô giáo theo Giáo hội Rô-ma. Trong Kinh Tin Kính của công đồng Nice -
Constantinopoli đã xác định Thiên Tính và Nhân Tính của Chúa Giê-su “Thiên Chúa
bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với
Đức Chúa Cha: Nhờ người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để
cứu độ chúng ta. Người đã từ trời xuống thế. Bởi phép đức Chúa Thánh Thần, Người
đã nhập thể trong lòng đức trinh nữ Ma-ri-a, và đã làm người”. Ngôi Lời đã có từ
trước muôn đời, nhưng vì yêu thương nhân loại nên Ngài đã xuống thế, để cứu độ
con người, mặc lấy thân phận con người để đưa con người trở về với tình yêu
thương của Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã xác định Thiên Chúa là “duy nhất” và phải
yêu mến Người “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi”. Đồng
thời, Người cũng ngầm cho ta hiểu chính Người là “Đức Chúa”. Tuyên xưng “Đức
Giê-su là Đức Chúa” là căn tính của đức tin Ki-to giáo [1].
Với đề tài này, mình sẽ tìm hiểu và
trình bày về nhân tính của Đức Giê-su. Đây là một trong những đề tài lớn mà
ngay trong thời kì đầu của Giáo hội có những cuộc tranh luộn hết sức sôi nổi giữa
Giáo hội và các lạc thuyết phủ nhận nhân tính của Chúa Giê-su. Chính vì thế, với
đề tài này con không có một tham vọng là tìm cho mình một suy nghĩ, một hướng
đi riêng về nhân tính của Đức Giê-su. Tất cả với tìm hiểu, góp phần củng cố đức
tin của mình.
1/ Mặc khải của Tân ước
Các sách Tin mừng đều cho ta thấy Chúa
Giê-su xuất hiện là một con người thật. Mặc dù mỗi tác giả có những nét đặc
trưng riêng để nói về Chúa Giê-su cho người khác hiểu, nhưng tất cả đều hướng đến
mục đích chung đó là giới thiệu Chúa Giê-su cách gần gũi nhất với cuộc sống hiện
tại của họ để họ dễ dàng tiếp nhận. Biến cố truyền tin cho Đức Ma-ri-a là một
biến cố rất quan trọng. Qua biến cố này, Ngôi Hai Thiên Chúa ngự trong lòng Đức
Trinh Nữ Ma-ri-a cách tròn đầy qua tiếng “xin vâng” (Lc 1, 38). Qua cung lòng Đức
Ma-ri-a nói lên sự dao duyên giữa trời và đất, để từ đây Ngôi Hai Thiên Chúa đi
vào lòng người, mặc lấy thân phận loài người, để cứu độ nhân loại và đưa nhân
loại trở về với tình yêu của Thiên Chúa. Ngài đến với con người như bao người
khác được sinh ra có cha, có mẹ. Cùng ăn, cùng uống, cùng chơi với bao trẻ cùng
thời. Mẹ của Ngài là một trinh nữ người Do Thái, đã đính hôn với Giu-se, thuộc
hoàng tộc Đa-vít. Chính nhờ tác động của Chúa Thánh Thần mà Đức Ma-ri-a cứu
mang và hạ sinh con Thiên Chúa mà vẫn còn đồng trinh (Mt 1,18-25). Qua đó nói
lên rằng: Thiên Chúa trở nên con người và sẽ ở mãi với chúng ta, đó là tất cả sự
tốt lành, thương xót và yêu thương của Người đối với chúng ta [2].
Theo các tác giả Tin mừng, Chúa Giê-su
sinh ra ở Be-lem thuộc miền nam nước Do Thái, trong hoàn cảnh đất nước đang bị
đô hộ bởi để quốc Rô-ma “Thời ấy, hoàng để
Au-gut-to ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ.
Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-nô-ô làm tổng trấn
xứ Xy-ri” (Lc 2,1-2). Giu- se thuộc dòng tộc Vua Đa-vít nên ông phải trở về
nguyên quán và đem theo Đức Ma-ri-a đang mang thai Chúa Giê-su để khai trình hộ
khẩu “ai nấy đều phải trở về nguyên quán mà khai tên tuổi. Bởi thế ông Giu-se từ
thành Na-da-rét, miền Ga-ly-lê lên thành Đa-vít tức Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông
thuộc gia đình dòng tộc vua Đa-vít” (Lc 2, 3-4). Đây quả là một chặng đường đầy
gian nan, vất vả đối với Đức Ma-ri-a vì đã sắp đến ngày khai sinh Chúa Giê-su,
không còn cách nào khác Đức Ma-ri-a phó thác con mình trong ơn Chúa và lên đường
cùng với Giu-se để trở về quê quán của Giu-se. Thực vậy, điều gì đến cũng đã đến
khi Ma-ri-a trở dạ, ông Giu-se đã đi tìm khắp nơi nhưng không có chỗ nào nhận cả,
nên Giu-se đành chấp nhận đưa Ma-ri-a vào nơi ở của chiên, bò “ Bà sinh con
trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không
tìm được chỗ trong nhà trọ ” ( Lc 2,7 ). Khi Chúa Sinh ra tại Bê-lem năm 747
tính từ ngày thành lập thành La-mã, thì
Xê-da Au-gút-tô làm thượng vụ La-mã. Cùng năm ấy, Hê-rô-đê cả được quốc hội
La-mã ban cho tước hiệu làm vua người Do Thái, cai trị Pa-lét-tin. Hê-rô-đê cả
là người ham hố quyền lợi, độc ác, nhưng được lòng tin của Thượng Vị và được
dân chúng kính trọng. Chính ông là người giết các Hài Nhi với hy vọng giết được
Chúa Giê-su. Khi ông Chết năm 750 thì Chúa Giê-su được 3 tuổi và được chia
vương quốc Pa-lét-tin cho ba con. Ác-kê-lao cai trị 3 vùng: Giu-đe, Sa-ma-ri và
I-du-mê. Hê-rô-đê cả là An-ti-pa cai trị miền Ga-li-lê và Pê-rê. Hê-rô-đê
Phi-lip-phê cai trị ở miền bắc. Thời Chúa Giê-su, có phong trào tôn giáo thịnh
hành là Biệt Phái và Xa-đốc [3]. Tất cả những trưng dẫn trên đều xác định Thiên Chúa là một người thật,
trong một thời gian và không gian với những biến cố xẩy ra có trong lịch sử.
Nói lên rằng: Ngài giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Ngài đến với thế
gian không phải cho thế gian nhưng là để cứu độ thế gian. Người đến thiết lập
vương quyền của Thiên Chúa. Vương quyền này không theo nghĩa đô hộ hoặc thống
trị, nhưng là vương quyền của tình thường [4]. Người bày tỏ tình thương của Chúa Cha qua việc gần gũi với người tội lỗi,
những kẻ bị gạt ra ngoài lề xã hội (x. Mc 2,15). Người bày tỏ tình thương của
Thiên Chúa qua việc tha tội ( x. Mc 2,5 ; Lc 7,48-49). Cách đặc biệt Ngài bày tỏ
uy thế của Ngài khi giảng dậy “Người giảng dậy như một Đấng có uy quyền, chứ
không như các kinh sư của họ” (Mt 7,29). Từ những việc chữa lành của Ngài, Ngài
đã khơi dậy lòng tin nơi họ, chỉ có niềm tin mới có thể cứu chữa được “Khi Đức Giê-su về tới nhà, thì hai người mù ấy tiến
lại gần. Người nói với họ: các anh có tin là tôi làm được điều ấy không?. Họ
đáp: Thưa Ngài, chúng tôi tin”(Mt 9,28). Cách đặc biệt, Ngài đã biểu lộ tình
thương đối với nhân loại khi Ngài cầu xin cùng Chúa Cha tha cho nhân loại, để từ
đầy nhân loại biết ăn năn trở lại trong chính con người họ “Lạy Cha, xin tha
cho họ vì họ không biết điều họ làm” (Lc 23,34). Qua cái chết, Ngài biến đổi tận
căn lòng tin nơi họ để họ nhìn lại quãng thời gian Người ở với con người
“Emmanuel”. Qua sự sống lại của Người, để con người đặt trọn niềm niềm tin và
hy vọng vào ngày sau cũng sẽ được Phục sinh với Ngài. Dưới ánh sáng Phục sinh,
các Ki-tô hữu tiên khởi đã đọc lại toàn thể cuộc đời của Đức Giê-su và đã giải
thích bản thân của Người như là Đấng Thiên sai, Con Thiên Chúa. Mầu nhiệm này
đã được mặc khải ngay từ khi thiên sứ truyền tin cho Đức Ma-ri-a, lúc sinh ra,
khi làm phép rửa, lúc hiển dung [5]. Do lòng nhân lành và khôn ngoan, Thiên Chúa đã mặc khải chính mình và tỏ
cho biết thiên ý nhiệm mầu (x. Ep 1,9), nhờ đó, loài người có thể đến cùng Chúa
Cha, nhờ Chúa Ki-tô, Ngôi Lời Nhập Thể, trong Chúa Thánh Thần, và được thông phần
vào bản tính Thiên Chúa (2 Pr,1,4) [6].
Đức Thánh Cha Bê-nê-đíc-tô đã nói về
Ngôi Lời trong huấn từ về thánh Phao-lô như sau: Những bản văn thuộc loại sách
khôn ngoan cũng nói rất nhiều về tiền hữu vĩnh cửu của Đức Khôn Ngoan, cũng nói
về sự đi xuống, tự hạ của Đức Khôn Ngoan, tự tạo một căn lều giữa loài người.
Chúng ta nghe âm vang tiền đề của Phúc Âm thánh Gio-an nói về lều xác thể của
Chúa. Trong cựu ước đã có lều được dựng lên: đó là Đền thờ, phượng tự dựa theo
luật Torah, nhưng theo nhãn quan Tân ước, ta có thể nói đây chỉ là tiên báo về
cái lều thật sự và ý nghĩa hơn: đó là lều thân xác của Đức Ki-tô [7]. Qua đó cho tha thấy được, Cựu ước là một sự chuổn bị
hơn thế nữa đó chính là những dấu chỉ được tiên báo trước trong ngày Chúa
Giê-su hiện diện cách đích thực với nhân loại
2/ Khẳng định của giáo hội
Công Đồng Nice I (325) ra đời trong bối
cảnh có nhiều lạc thuyết phủ nhận Nhân Tính của Đức Giê-su. Đó là vào cuối thế
kỉ thứ I và đầu thế kỉ thứ II, nhiều lạc thuyết phủ nhận thực tại thân xác của
Đức Ki-tô và thực tại đời sống trần thế của Người, nhất là cuộc khổ nạn và cái
chết, họ cho đó chỉ là ảo ảnh, khởi điểm cho lạc thuyết ảo ảnh. Những giáo phái
thông tri sau này, gán cho Đức Ki-tô một thân xác ảo không có chút thực tế nào
hay chỉ là một thân xác tinh tú trên thiên quốc, từ đó đưa đến thứ Thông tri Nhị
Nguyên, theo những người này không thể có sự kết hợp giữa Ngôi Lời và một thân
xác con người được, chỉ vì vật chất là nơi trị vì của sự xấu [8]. Đỉnh cao của ảo thân thuyết đó là Lạc giáo Arius (280-330), ông là một linh mục thuộc trường
phái Alexandrie, có tham vọng mang lại câu đáp dứt điểm dựa vào nguyên tắc mà
ông cho là bất khả phi bác. Ông cho rằng Chúa Con thua kém Chúa Cha. Từ đó gây
nên những cuộc luận chiến, xáo động và tranh đấu. Pha vào tranh cãi về giáo
thuyết là những vấn đề chính trị và về từ vựng [9]. Trong lối suy tư của Arius không có sự hiện diện nhân tính trong con người
của Chúa Giê-su. Khởi điểm của cuộc suy tư là bản tính của Đức Ki-tô. Logos đã
kết hợp với thân xác con người Đức
Giê-su. Và cho rằng Đức Ki-tô không có hồn của nhân loại, bởi vì Logos
đã thay thế chức năng của linh hồn. Logos là một hypostasis khác biệt với Chúa
Cha và Thánh Linh. Mặt khác, Logos kết hợp chặt chẽ với con người Đức Giê-su
cho nên không thể là Thiên Chúa như Chúa Cha được. Lý do là Thiên Chúa siêu việt,
bất biến thì đâu có thể kết hợp với con người. Vì thế Logos thuộc về thế giới
thụ tạo chứ không thể nào “đồng bản thể” với Chúa Cha [10]. Với xác tín đầu tiên này của Arius liên quan tới tính
duy nhất của Thiên Chúa, nó vừa mang tính Kinh Thánh và vừa mang tính triết học.
Trong một chiều hướng triển khai Ki-tô học từ dưới lên, Arius đã tự hỏi: làm thế
nào để xác định Đức Giê-su là “Con Thiên
Chúa”, so với Chúa Cha?. Đứng trên những câu hỏi đo, Arius đã sử dụng một quan
niệm cổ điển của triết học về Thiên Chúa để nói: Thiên Chúa là Một, không được
sinh ra, có từ đời đời, tất cả các triết thuyết tôn giáo nhận biết như vậy.
Thiên Chúa là duy nhất, không được sinh ra, hằng hữu vô vật chất, bất biến. Người
không thể thông ban cái gì từ chính Người. Do đó tất cả những gì hiện hữu “bên
ngoài” thì Thiên Chúa được quan niệm như là Nguyên lý vô thủy vô chung, những
cái đó không thể và không là Thiên Chúa được,
nhưng chỉ là tạo vật của Người [11]. Chính vì thế, Arius phủ nhận đồng bản tính với Chúa Cha trong Chúa
Giê-su. Chúa Giê-su không phải là Thiên Chúa thật, cũng khôn ngang hàng với
Thiên Chúa, Người cũng không là con người thật, bởi vì thể xác mà Ngôi Lời đã kết
hợp nơi Người đã không tạo nên và không có thể tạo nên một nhân tính thực sự và
đầy đủ. Chính vì thế, Arius cũng phủ nhận luôn đau khổ của Chúa. Chúa Giê-su là
một Thiên Chúa cấp thấp, bởi vì Thiên Chúa chân thực thì đã không chịu đựng một
tình cảnh đau khổ như thế. Trong ngày lãnh lãnh nhận phép rửa, chính Chúa Cha
đã thánh hiến Ngài. Vinh quang và Phục sinh của Ngài đều nhận từ nơi cao. Chúng
không phải đến từ chính Người, nhưng là đến từ Chúa Cha. Trong suốt cuộc đời của
Người, Đức Giê-su đã chứng tỏ Người luôn tuân phục Chúa Cha, Người nhìn nhận
Chúa Cha lớn hơn Người .[12]
Trước tình hình đó, Công Đồng Ni-ce
I đã nhóm họp và khẳng định nhân tính thật có trong Chúa Giê-su, bác bỏ lại
toàn bộ những chủ thuyết để phủ nhận nhân tính trong Chúa Giê-su. Các giáo phụ của công đồng đã khởi
đi không phải từ một suy tư mang tính biện luận về hữu thể Thiên Chúa, nhưng từ
kinh nghiệm về ơn cứu dộ đã được thưc hiện trong cộng đoàn Ki-tô hữu ngay từ đầu
[13]. Với tình yêu thương nhân loại, Thiên Chúa đã tự hạ để cứu
độ con người và cho con người được thông phần với vinh quang trên thiên quốc. Nếu
Người không phải là Thiên Chúa thật, thì Người không thể làm cho chúng ta trở
nên con cái Thiên Chúa được, Người cũng không thể làm cho chúng ta được thông dự
vào đời sống Chúa Ba Ngôi nếu như chính Người không có sự trọn hảo ấy. Qua đó
nói lên ơn ơn cứu độ được thực hiện cách toàn diện trong con Người Chúa Giê-su.
Theo thánh Athanase, người biện hộ của Nice, nếu Chúa Giê-su- Ki-tô không
phải là Thiên Chúa thật và không phải là người thật, như thể Ki-tô học Ngôi Lời
thể xác của Arius bảo vệ, thì Người không có khả năng đem lại ơn cứu độ cho
nhân loại, và con người không thể tìm thấy ơn cứu độ trong Người “bởi Người đã
đích thân làm người để chúng ta được thành Thiên Chúa, chính Người đã trở nên hữu
hình nhờ thân thể Người, để chúng ta có được một ý niệm về Đấng là Cha vô hình,
và Người đã hứng chịu người ta lăng nhục để chúng ta có phần trong tính bất loại”[14]. Một cách nào đó ta có thể nói, để hiểu về Đức Ki-to thì phải đi từ chức vụ của Ngài, được
Ngài thực hiện trong cuộc sống. Hầu mang ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại. Công
đồng cho thấy rằng mọi hành vi tách biệt “Đức Ki-tô đối với tôi” với “Đức Ki-tô
trong chính Người” hay “Đức Ki-tô đối với Thiên Chúa” là phả hủy đức tin. Điều
này muốn diễn tả một cách tương tự, đó chính là mối dây liên kết thiết yếu giữa
Chúa Ba Ngôi trong nhiệm cục cứu độ và Chúa Ba Ngôi trong “bản thể” hay là Ba
Ngôi trong “nội tại tính”. Nhiệm cục cứu độ được thực hiện bởi Thiên Chúa Cha
nhờ sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần đưa tới khẳng định về sự chuyển thông
của Chúa Ba Ngôi trong lòng thiên tính. Công đồng cũng khẳng định chức vị làm
con Thiên Chúa được gán cho Đức Giê-su Ki-tô bởi tân ước phải được hiểu trong
nghĩa chặt của nó. Các nghị phụ bảo toàn thiên tính của Chúa Con: Về thiên tính
Chúa Con ngang bằng với Chúa Cha. Xác tín này được dựa vào sự trình bày rất cụ
thể mà Tân ước tỏ bày cho chúng ta về tương quan sống động nhất, trong đời sống,
cái chết và sự Phục sinh của Đức Giê-su với Cha của Người [15]. Tất cả những khẳng định của công đồng Nice I được tóm gọn
trong Kinh Tin Kính mà các Chúa Nhật và các Ngày lễ trong ta thường hay đọc
trong Thánh Lễ.
Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô cũng đã khẳng định về sự tiền hiện hữu liên kết
với sự tự hạ của Con Thiên Chúa vào trần gian, điều này đã gặp một tái xác quyết
về so sánh giữa Đức Khôn Ngoan và Đức Ki-tô, với tất cả hệ luận vũ trụ và nhân
luận phát xuất từ đó, trong lá thư thứ nhất gửi Ti-mô-thê “Đức Ki-tô xuất hiện
trong thân phận người phàm, được Chúa Thánh Thần chứng thực là công chính, Người
được Thiên Thần chiêm ngưỡng và được loan truyền giữa muôn dân, Người được cả
hoàn cầu tin kính, được siêu thăng cõi trời vinh hiển” (Tm 3,16). Đức Thánh Cha
đã khẳng định, dựa vào những điều này, người ta có thể xác định phận vụ của Đức
Ki-tô rõ ràng hơn như Đấng Trung Gian duy nhất, trong liên hệ với Thiên Chúa
duy nhất của Cựu ước (x. 1Tm2,5 liên hệ với Is 43,10-11; 44,6 ). Đức Ki-tô
chính là cây cầu đích thực dẫn chúng ta lên trời, bước vào hiệp thông với Thiên
Chúa [16].
3/ Kết Luận
Tuyên xưng Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa thật và là người thật, là căn
tính của người Ki-tô hữu, là một mầu nhiệm lớn nhất nên với trí óc con người
không thể nào thấu hiểu tận căn mầu nhiệm này. Trải qua bao nhiêu thế kỉ, con
người cũng chỉ dựa vào Kinh Thánh để hiểu về Ngài, đây là gia tài lớn nhất của
Giáo hội khi giới thiệu Chúa Giê-su cho người khác. Chính Ngài đã đến với con
người, hiện điện trong đời sống hằng ngày với nhân loại để nhận loại tiến gần với
Chúa hơn. Qua đó xác định rõ hơn, Đức
Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn chút bỏ vinh quang, trở nên con
người như chúng ta, đã vâng lời cho đến chết trên thập giá. Vì thế Thiên Chúa
đã tôn vinh Người trên tất cả và mọi miêng lưỡi phải tuyên xưng “Đức Giê-su
Ki-tô là Chúa” (x. Pl 2,6-11). Trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, chúng ta
và toàn thể sáng tạo không phải là những khán giả vô tư, nhưng Đức Ki-tô là Trưởng
Tử mà chúng chúng ta phải thông phần vào bản chất và hình dạng của Người (x. Rm
8,29), cho đến khi Người thống trị tất cả (x.Ep1,23) [17].
[1] Sách giáo lý hội thánh công giáo (Hội
đồng giám mục Việt Nam - ủy ban giáo lý đức tin dịch), NXB tôn giáo, hà nội,
2009, Số 202.
[2]
Lm Giuse Phạm Văn Tuynh, Theo
Chúa Ki-tô, Nxb tôn giáo, 2007, 54.
[3]
Lm Giuse Phạm Văn Tuynh, Theo
Chúa Ki-tô, Nxb tôn giáo, 2007, 11.
[4]
Phan Tấn Thành, Mầu Nhiệm
Thiên Chua, Hoc Viện Đa Minh năm 2012. 150
[5] Phan Tấn Thành, Mầu Nhiệm Thiên
Chua, Hoc Viện Đa Minh năm 2012. 152.
[6] Thánh Công Đồng Vaticano II (Hội đồng
giám mục Việt nam- ủy ban giáo lý đức tin dich 2012), Số 2.
[7] ĐGH Bê-nê-đic-tô XVI, Huấn từ của Đức
Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI về thánh Phaolo, Lm, Aug NguyễnVăn Trinh dịch, Nxb
tôn giáo, 111.
[8] Lm Augutto Nguyễn Văn Trinh, Dẫn nhập
vào Ki-tô học, Nxb tôn giáo, 269.
[9] Lm JB Nguyễn Khắc Bá, Giáo trình
Ki-tô học, Đại Chủng Viện Vinh Thánh năm
học 2015-2016. Tr 177.
[10] Phan Tấn Thành, Mầu Nhiệm Thiên
Chua, Hoc Viện Đa Minh năm 2012. 239.
[11]
Lm JB Nguyễn Khắc Bá, Giáo
trình Ki-tô học, Đại Chủng Viện Vinh Thánh
năm học 2015-2016. Tr 178.
[12]
Lm JB Nguyễn Khắc Bá, Giáo
trình Ki-tô học, Đại Chủng Viện Vinh Thánh
năm học 2015-2016. Tr 181.
[13]
Lm JB Nguyễn Khắc Bá, Giáo
trình Ki-tô học, Đại Chủng Viện Vinh Thánh
năm học 2015-2016. Tr 182.
[14]
Suy tư của Thánh Athanase
thành Alexandria. Trong giáo trình Cha giáo JB Nguyễn Khắc Bá.
[15]
Lm JB Nguyễn Khắc Bá, Giáo
trình Ki-tô học, Đại Chủng Viện Vinh Thánh
năm học 2015-2016. Tr 184.
[16]
ĐGH Bê-nê-đic-tô XVI, Huấn từ
của Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI về thánh Phaolo, Lm, Aug NguyễnVăn Trinh dịch,
Nxb tôn giáo, 113.
[17][17] ĐGH Bê-nê-đic-tô XVI, Huấn từ của Đức
Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI về thánh Phaolo, Lm, Aug NguyễnVăn Trinh dịch, Nxb
tôn giáo, 115.
MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA BA NGÔI VÀ GIÁO HỘI
Anton Nguyễn Công Chính
Trong Hiến
Chế Tin Lý Về Giáo Hội của công đồng Vaticano II đã cho ta thấy mối tương quan
giữa Chúa Ba Ngôi và Giáo hội “ Giáo hội phổ quát xuất hiện như một dân tộc được
hợp nhất khởi nguồn từ sự hợp nhất của Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần”
[1]. Từ đó, ta thấy
được Giáo hội sinh ra từ Ba Ngôi và cho Ba Ngôi. Bí tích thánh tẩy là một hành
động thánh hiến dâng lên Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhờ bí tích này mà con người được
gia nhập với Giáo hội và trở thành con Thiên Chúa [2]. Chính vì thế,
ngay ở chương đầu của hiến chế về Giáo hội, Công đồng Vaticano II đã xác định Giáo
hội phát sinh từ mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, tức là từ sáng kiến của Chúa
Cha, từ sự khôn ngoan của Chúa Con và từ tình yêu của Chúa Thánh Thần [3]. Giáo hội
chính là thân hình mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Từ đây, cho ta thấy rõ giá trị 4 đặc
tính của Giáo hội: Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền. Giáo hội được
sinh ra không phải vì sự ngẫu nhiên hay một cách thể hiện uy quyền của Chúa Ba
Ngôi nhưng Giáo hội được sinh ra bởi ý định khôn ngoan, nhân lành, hoàn toàn tự
do và mầu nhiệm, Chúa Cha hằng hữu đã tạo dựng vũ trụ, Người quyết định nâng
loài người lên tham dự đời sống thần linh, trong Chúa Con: Chúa Cha muốn quy tụ
những ai tin Chúa Ki-to họp thành Hội Thánh [4]. Thực vậy,
Giáo hội chính là sự hiện diện cách tròn đầy của Ba Ngôi Thiên Chúa. Giáo hội
chính là hoa trái do ý định của Ba Ngôi Thiên Chúa chứ không phải do một xác phàm
nào tạo ra “Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của
nhục thể, hoặc do ước muốn của đàn ông nhưng do bởi Thiên Chúa ” (Ga 1,13), nên
Giáo hội có nền tảng vững chắc được xây dựng trên nền móng của chính thân thể mầu
nhiệm Chúa Ba Ngôi. Thánh I-rê-nê đã
nói: Vinh quanh của Thiên Chúa là con đường sống và sự sống của con người là
chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Chính vì thế toàn bộ công trình đều do Thiên Chúa và tất
cả mọi sự đều quy hướng về Ngài trong tình yêu thương “chỉ có một thân thể, một
Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ
có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người,
Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4, 4-6). Chính
vì thế, trong ý định cứu độ, yêu thương từ đời đời của Chúa Cha, Giáo hội đã được
chuổn bị trong lịch sử giao ước với dân It-ra-el, để đến thời viễn mãn, Giáo hội
được thiết lập trong sứ mạng của Chúa Con, cao điểm nhất chính là màu nhiệm Vượt
Qua trong ngày lễ ngũ tuần, ngày mà Giáo hội được đầy tràn Thánh Thần [5]. Như vậy, để
chu toàn thánh ý Chúa Cha, Đức Ki-tô đã khai nguyên Nước Trời ở trần gian và mặc
khải cho chúng ta mầu nhiệm của Người, đồng thời cho chúng ta được ơn cứu chuộc
nhờ sự vâng phục của Người. Giáo hội nghĩ vương quốc Chúa Ki-tô đang hiện diện
cách mầu nhiệm, vẫn luôn tăng trưởng cách hữu hình trong thế giới nhờ quyền lực
của Thiên Chúa. Cội nguồn và sự tăng trưởng của Giáo hội được biểu thị bằng máu
và nước chảy ra từ cạnh sườn rộng mở của Đức Giê-su chịu đóng đinh trên Thập
Gía và được tiên báo qua Lời Chúa nói về cái chết của Người trên Thập giá: Phần
tôi, khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi [6]. Qua đó, cho
ta thấy Giáo hội được công khai sáng lập trong ngày lễ Ngũ Tuần, đỉnh cao của
việc sáng lập khi Thiên Chúa Ba Ngôi tiết lộ cách trọn vẹn sự hiện diện của Người
ở giữa loài người. Cho nên sứ vụ của Giáo hội tại trần thế không phải thi hành
cách mạch lạc theo ý riêng của mình nhưng thi hành nhân danh Chúa Ba Ngôi [7]. Giáo hội
mang trên mình màu nhiệm Chúa Ba Ngôi, nên những ai qua bí tích rửa tội sẽ được
thông phần với mầu nhiệm này. Nên khí nói đến Chúa Ba Ngôi là nói đến thân mình
mầu nhiệm Giáo hội và khi nói đến Giáo hội là nói đến sự hiện diện đích thực của
Ba Ngôi Thiên Chúa. Chính Thánh Phao-lô đã nói “Lúc muôn loài đã quy phục Đức
Ki-tô, thì chính người, vì là Con, cũng sẽ quy phục Đấng bắt muôn loài phải quy
phục Người, và như vậy, Thiên Chúa có toàn quyền trên muôn loài” (1Cr 15,28).
Có rất nhiều hình ảnh để nói về sự hiệp thông giữa Chúa Ba Ngôi và Giáo hội
nhưng với đề tài này con xin được trình bày về 3 điểm: Giáo hội là dân Thiên
Chúa, Giáo hội là Thân Thể Chúa Ki-tô, Giáo hội là đền thờ Chúa Thánh Thần.
1/ Giáo hội là
dân Thiên Chúa
Ngay từ khởi
nguyên của công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã dựng nên con người theo hình ảnh
Thiên Chúa “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như
chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển chim trời, gia súc, dã thu, tất cả mặt
đất và mọi giống vật bò dưới mặt đất” (St 2,26). Một đặc ân cao vời mà Thiên
Chúa đã ban cho loài người. Cũng có thể gầm hiểu một Giáo hội sơ khai trong sự
tinh tuyền và ân sủng của Thiên Chúa ban cho nhân loại. Cũng có thể nói đây là
một sự kết hợp giữa Giáo hội vô hình và Giáo hội hữu hình trong ý định yêu
thương của Thiên Chúa. Từ Giáo hội này con người được đi vào trong mối thân
tình với Thiên Chúa và Thiên Chúa đi vào trong lòng nhân loại. Khởi đầu công
trình tạo dựng là một vẻ đẹp muôn màu được Ngài vẽ ra trong ý tưởng của Ngài,
nhưng vẻ đẹp đó đã bị tự do của con người phá vỡ và làm cho vẻ đẹp thủa ban đầu
của Thiên Chúa bị biến dạng trong sự tội của con người. Từ đó, tạo nên một khoảng
cách giữa Giáo hội vô hình và Giáo hội hữu hình “bởi những thanh gươm sáng lóe”
(x. St 3, 24). Khoảng cách này không phải là sự đoạn tuyệt của Thiên Chúa với
nhân loại nhưng nói lên rằng: giữa Thiên Chúa và nhân loại không còn có mối
tương quan thân mật nữa, để rồi bên này mà đến được với bên kia phải qua một
trung gian nào đó. Chính vì thế, trong lời
trừng phạt của Thiên Chúa dành cho “con
rắn” đã mở ra một con đường với tràn đầy niềm hy vọng và tái thiết lại mối
tương quan giữa Thiên Chúa và nhân loại “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn
bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy, dòng giống đó sẽ đánh vào đầu
mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3, 15).
Xuất chiều dài Kinh Thánh Cựu ước như là một sự
chuổn bị để đón chờ biến cố trọng đại này. Khởi đầu, Ngài đã chọn dân It-ra-el
làm dân riêng, đã thiết lập giao ước, dậy bảo họ dần dần bằng cách bày tỏ chính
mình và ý định của mình qua lịch sử, đồng thời thánh hóa họ để dành riêng cho
mình. Tất cả là hình bóng của một giao ước mới và hoàn hảo sẽ được kí kết trong
Đức Ki-tô, được mặc khải cách trọn vẹn do chính Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể
mang đến [8]. Không chỉ với
dân It-ra-el nhưng còn với tất cả mọi người, bất cứ người nào kính sợ Thiên
Chúa và ăn ngay ở lành đều được Người đoái thương và tiếp nhận (x. Cv 10,35). Sỡ
dĩ Ngài Chọn đích danh một dân tộc vì Thiên Chúa không muốn thánh hóa và cứu độ
con người cách riêng rẽ, thiếu liên kết, nhưng Ngài muốn qui tụ họ thành một
dân tộc, để họ nhận biết Người trong chân lý, và phụng sự Người trong sự thánh
thiện [9]. Dân tộc này
như là mẫu mực, để qui tụ hết thảy mọi người muốn tìm kiếm Người, thì cũng luôn
noi gương bắt trước dân tộc Chúa đã chọn để tìm kiếm chân lý và phụng thờ Người.
Như vậy, dân được tuyển chọn mạng trên mình sứ vụ làm chứng cho Thiên Chúa, là
cánh cửa để các dân tộc khác nhận biết Thiên Chúa. Chính Ngài cũng cảnh báo cho
dân tuyển chọn biết, không phải vì trong dân nay có nhiều người tài giỏi, nhiều
người đạo đức. Tất cả những điều này đều không có nghĩa lý gì đối với Thiên
Chúa. Ngài tuyển chọn dân này tất cả vì lòng yêu mến và giữ lời hứa với cha ông,
cho nên dân được tuyển chọn đừng có kiêu ngạo đối với các dân tộc khác (x. Dnl
7, 7-8). Dân được tuyển chọn sẽ được tham dự vào 3 chức măng của Thiên Chúa: Tư
tế, Ngôn sứ và Vương đế [10]. Qua bí tích Rửa
tội con người trở nên con cái của Chúa, con cái Giáo hội. Từ đó mỗi người có bổn
phận phải mang Chúa đến với mọi người xung quanh bằng chính đời sống và gương
lành của mình. Điều này đã được Thánh Phê-rô nhấn mạnh “ còn anh em, anh em là
giống nòi được tuyển chọn, là hàng tư tế, vương giả, là dân thánh, dân riêng của
Thiên Chúa, để loan truyền những kì công của Người, Đấng đã gọi anh em ra khỏi
miền u tối, đưa vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền ” (1Pr 2,9).
Trong thư của thánh Phao-lô đánh giá “dân
thiên Chúa” trước tiên cho dân Cựu ước, sau đó cho dân ngoại, thủa xưa “không
thuộc về dân” và nay trở thành dân Thiên Chúa nhờ hội nhập vào Chúa Ki-tô qua Lời
và bí tích. Còn một điểm tế nhị cuối cùng, trong lá thư thứ nhất gửi cho
Ti-mô-thê, thánh Phao-lô xem Hội thánh là “nhà của Thiên Chúa” (1 Tm 3,15), đây
là một định nghĩa thực sự nguyên thủy, vì gợi lên cho thấy Giáo hội như một cơ
cấu cộng đoàn trong đó có những quan hệ liên vị nồng ấm mang tính chất gia
đình. Thánh Phao-lô giúp chúng ta luôn hiểu sâu xa hơn mầu nhiệm Giáo hội trong
những chiều kích khác nhau về việc qui tụ của Thiên Chúa trong thế giới. Đó là
sự vĩ đại của Giáo hội và là sự vĩ đại của ơn gọi chúng ta, chúng ta là Đền Thờ
Thiên Chúa trong thế giới, nơi Thiên Chúa thực sự trú ngụ, đồng thời chúng ta
là cộng đoàn, là gia đình của Thiên Chúa mà Người là Tình Yêu [11].
2/ Giáo hội là
Thân Thể Chúa Ki-tô
Biến cố nhập
thể của Đức Ki-tô là biến cố quan trọng trương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Thiên Chúa đã đi vào với con người, tháp nhập vào trong thân phận yếu hèn của
con người và đưa con người trở về với Thiên Chúa “Và đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ
một con trai, và đặt tên là Giê-su” (Lc 1,31). Chính điều này nói lên được, Giáo
hội không phải ở một nơi nào khác nhưng Giáo hội ngay ở trong mỗi người “Nào
anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Ki-tô sao?” (x.
1Cr 6,15). Thân xác loài người hút trọn thân xác vẹn toàn của Đức Ki-to. Từ đó
đưa cả con người bất toàn vào trong mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Một sự kết
hợp cách tròn đầy giữa Giáo hội vô hình và Giáo hội hữu hình trong một thân xác
vẹn toàn nơi Đức Ma-ri-a. Qua đó nói lên rằng: Giáo hội xuất hiện như người Mẹ
hiền đồng trinh, luôn cung cấp các bí tích sinh lực cứu độ cho các tín hữu do Đức
ki-tô trao ban[12]. Qua thân
hình mầu nhiệm của Đức Ma-ri-a, tượng trưng cho tất cả mỗi người là chi thể của
Giáo hội và được đón nhận một Thần Khí cách phổ quát từ Thiên Chúa “tất cả
chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy-lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép
rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta đã được đầy
tràn một Thần Khí duy nhất” (1Cr 12,13). Nhưng thân hình Mầu Nhiệm sự sống ấy
được thông truyền cho những người tin, nhờ các bí tích, họ thực sự được kết hợp
cách mầu nhiệm với Đức Ki-tô khổ nạn và vinh hiển [13]. Giáo hội mời
gọi tất cả mọi người nhận ra tình yêu của Thiên Chúa mà trở về với Chúa. Chính
bí tích thánh tẩy là của ngõ để Đức Ki-tô đi vào trong con người của mình, là của
ngõ bước vào trong vinh quang với Thiên Chúa. Qua đó cũng cho ta thấy được Giáo
hội là sự da dạng của nhiều chi thể, mỗi chi thể góp phần xây dựng và làm cho
nước Chúa được lan tỏa “vậy anh em, anh em là thân thể Đức Ki-tô, và mỗi người
là một bộ phận” (1 Cr12,27). Giáo hội không phải là sự hỗn loạn của nhiều chi
thể, ai muốn làm gì thì làm nhưng Thiên Chúa đã ban cho mỗi chi thể một nhiệm vụ
khác nhau, không ai giống ai, tất cả các chỉ thể này quy về một điểm đó là làm
sáng danh Chúa và hợp nhất với nhau trong cùng một chi thể là Đức Ki-tô “Trong
Hội Thánh Thiên Chúa đặt một số người, thứ nhất là các tông đồ, thứ hai là các
ngôn sứ, thứ ba là các thầy dậy, rồi đến những người được ơn làm phép lạ, được
những đặc sủng để chữa bệnh, để giúp đỡ người khá, để quản trị, để nói các thứ
tiếng lạ” (1 Cr12,28). Các chi thể trong Giáo hội được hợp nhất với đầu là Đức
Ki-tô “Thiên Chúa đã đặt tất cả dưới chân Đức Ki-tô, và đặt Người làm đầu toàn
thể Hội Thánh, mà Hội Thánh là thân thể Đức Ki-tô, là sự viên mãn của Người, Đấng
làm cho tất cả được viên mãn” (Ep 1,22). Giáo hội tựa như cây đèn tỏa chiếu
muôn dân, ánh đèn sáng ấy chính là Đức Ki-tô [14].
3/ Giáo Hội Là
Đền Thờ Chúa Thánh Thần
Thánh công đồng Vatiacano II đã nói về vai trò
của Chúa Thánh Thần trong Hội Thánh. Khi công trình Chúa Cha trao phó cho Chúa
Con thực hiện trên trần gian đã hoàn tất (x. Ga 17,4), Chúa Thánh Thần được cử
đến vào ngày lễ Ngũ Tuần để không ngừng thánh hóa Giáo hội, và như thế, những kẻ
tin sẽ đến với Chúa Cha qua Chúa Ki-tô trong cùng một Thánh Thần (x.Ep 2,18).
Chính Ngài là Thần Khí sự sống, là mạch nước vọt lên đến sự sống vĩnh cửu (x.Ga
4,14; 7,38-39), nhờ Ngài, Chúa cha tác sinh những kẻ đã chết vì tội lỗi, cho đến
khi Ngài Phục sinh thân xác phải chết của họ trong Đức Ki-tô (x. Rm 8,10-11).
Chúa Thánh Thần ngự trong giáo hội và trong tâm hồn các tín hữu như trong đền
thờ (x. 1Cr 3,16; 6,19). Ngài cầu nguyện trong họ và chứng thực họ là nghĩa tử
(x. Gl 4,6; Rm 8, 15-16. 26). Chúa Thánh Thần dẫn đưa Giáo hội đến sự thật toàn
vẹn (x. Ga 16,13), và hợp nhất với Giáo hội trong sự hiệp thông và trong tác vụ,
Ngài xây dựng và hướng dẫn Giáo hội với nhiều hiện sủng và đoàn sủng khác nhau,
Ngài trang điểm Giáo hội bằng các hoa quả của Ngài (x. Ep 4,11-12; 1Cr 12,4; Gl
5,22). Nhờ sức mạnh của Tin Mừng, Chúa Thánh Thần không ngừng canh tân và làm
cho Giáo hội luôn tươi trẻ, dìu dắt Giáo hội đi đến sự kết hợp hoàn toàn với
Phu Quân của mình. Thật vậy, Chúa Thánh Thần cùng Hiền Thê nói với Chúa Giê-su
“Xin Ngài ngự đến” (x.Kh 22,17). Như vậy, Giáo hội phổ quát xuất hiện như một
dân tộc được hợp nhất khởi nguồn từ sự hợp nhất của Chúa Cha và Chúa Con và
Chúa Thánh Thần [15]. Mọi chi thể
trong Giáo hội được xây dựng trên nền tảng Chúa Ki-to và được Chúa Thánh Thần
thánh hóa. Chúa Thánh Thần là nguyên lý của mọi hành động tác sinh và thật sự cứu
độ trong từng thành phần của thân thể [16]. Ảnh hưởng của
Ngài nằm ở chỗ thôi thúc, thu hút thế gian về với Chúa Con và Chúa Cha, hay nói
cách khác, Ngài là “linh hồn” của lời cầu cũng như của mọi hoạt động tông đồ
trong Giáo hội. Ngài kiến tạo động lực đẩy mạnh bước tiến hướng tới chân lý
viên mãn (Ga 16,13), bởi Ngài là “Thần Khí của chân lý” (Ga 14,16-17). Và vì
chân lý là Đức Ki-tô (x. Ga 14,6), cho nên Thần Khí làm chứng về Đức Giê-su (x.
Ga 15,26-27). Trong Giáo hội, Ngài là mối dây liên kết đầy sức sống ràng buộc
các chi thể của thân mình Đức Ki-tô. Qua các bí tích, sức sống này được thông
ban cho các tín hữu [17]. Thần Khí thúc
đẩy Giáo hội cộng tác thực hiện trọn vẹn ý định của Thiên Chúa là Đấng đã đặt Đức
Ki-tô làm nguyên lý cứu độ cho toàn thế giới. Bằng việc rao giảng Tin mừng,
Giáo hội chuổn bị tâm hồn những người nghe để họ đón nhận và tuyên xưng đức
tin, giúp họ sẵn sàng lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy, đưa họ ra khỏi cảnh nô lệ của
sự lầm lạc, nhập hiệp họ vào Đức Ki-tô, để nhờ đức ái, họ tăng trưởng trong Người
cho đến khi đạt tới tầm vóc viên mãn [18].
4/ Kết luận
Đây là một đề tài rất rộng
lớn và quan trọng. Có rất nhiều các nhà thần học quan tâm và khai triển để tài
này. Dương như các ý tưởng trong bài của con không có gì mới ngoài việc tìm hiểu
và trích dẫn các tử tưởng của các tác giả, cách đặc biệt là đối với Thánh Công
đồng và sách Giáo lý Hội thánh Công giáo. Khi tìm hiểu các tư tưởng của các tác
giả giúp con yêu mến Chúa và Giáo hội hơn. Qua đó cũng nhắc nhớ con ý thức hơn
về thân phận của mình. Qua bí tích rửa tội, con được trở thành con Chúa và sống
trong lòng Giáo hội, đó chính là nhiệm thể Chúa Ba Ngôi. Mang trên mình sứ vụ của
Chúa không những tìm hiểu để tăng thêm đức tin cho mình mà con có một bổn phận
là loan truyền đức tin con đã lãnh nhận cho tất cả mọi người, cách đặc biệt là
những người chưa nhận biết Chúa. Đề từ đây có thể quy tụ tất cả về với Chúa
trong sự hợp nhất với chi thể Chúa Ba Ngôi.
Tài liệu tham khảo
1/ Kinh Thánh
Trọn Bộ. Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ dịch.
2/ Công Đồng
Vaticano II, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin dịch.
3/ Sách Giáo
Lý Hội Thánh Công Giáo,Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin dịch.
4/ Giáo Hội Học,
Felipe Gómez, SJ.
5/ Giáo hội
qua các tác giả.
6/ Giáo hội học
của Lm Aug. Hoàng Đức Toàn.
7/ Giáo hội
như là dấu chỉ bí tích của Lm Anton Hà Văn Minh.
8/ Mầu nhiệm
Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi của Lm Aug Nguyễn Văn Trinh.
9/ Giáo hội
giàu lòng thương xót của Đức Thánh Cha
Phanxico, do Aug Nguyễn Minh Triệu dịch.
[1]
Thánh Công Đồng Vaticano II, (ủy
ban giáo lý đức tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dich )Hiến Chế Lumen
Gentium, 4, 72.
[2] FeLipe Gómez, S.J. giáo hội học.
Anton và Đuốc Sáng, 2006, 62.
[3] FeLipe Gómez, S.J. giáo hội học.
Anton và Đuốc Sáng, 2006, 53.
[4] Sách giáo lý giáo hội công giáo (hội
đồng giám mục việt nam- ủy ban giáo lý đức tin dịch) , NXB tôn giáo, Số 759
[5] Sách giáo lý giáo hội công giáo (hội
đồng giám mục việt nam- ủy ban giáo lý đức tin dịch) , NXB tôn giáo, Số 759
[6]
Thánh Công Đồng Vaticano II, (ủy
ban giáo lý đức tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam dich )Hiến Chế Lumen
Gentium, 3, 71.
[7] FeLipe Gómez, S.J. giáo hội học.
Anton và Đuốc Sáng, 2006, 62.
[8]
Hiến Chế Lumen Gentium, số 9, 83.
[9] Sách giáo lý giáo hội công giáo (hội đồng giám
mục việt nam- ủy ban giáo lý đức tin dịch) , NXB tôn giáo, Số 781.
[10] Sách giáo lý giáo hội công giáo (hội
đồng giám mục việt nam- ủy ban giáo lý đức tin dịch) , NXB tôn giáo, Số 783.
[11] ĐGH
Bê-nê-đic-tô XVI, Huấn từ của Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đic-tô XVI về thánh Phaolo,
Lm, Aug NguyễnVăn Trinh dịch, Nxb tôn giáo, 106.
[12]
Giáo hội học qua các tác giả, tr 151.
[13]
Thánh Công Đồng Vaticano II, (ủy ban giáo lý đức tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam dich )Hiến Chế Lumen Gentium, 7, 77.
[14] FeLipe
Gómez, S.J. giáo hội học. Anton và Đuốc Sáng, 2006, 57.
[15]
Thánh Công Đồng Vaticano II, (ủy ban giáo lý đức tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam dich )Hiến Chế Lumen Gentium, 4, 72.
[16] Piô
XII, thông điệp Thánh Thể: DS 38008.
[17] FeLipe
Gómez, S.J. giáo hội học. Anton và Đuốc Sáng, 2006, 60.
[18] Thánh
Công Đồng Vaticano II, (ủy ban giáo lý đức tin trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt
Nam dich ) Hiến Chế Lumen Gentium, 17, 99.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)