Thứ Tư, 15 tháng 5, 2013

TUYỂN CHỌN VÀ THÁCH ĐỐ KHI CHỌN APRAHAM


I/ Dẫn Nhập
     Trung tâm của bộ Thánh Kinh là tiếng gọi yêu thương của Thiên Chúa, là ân sủng nhưng không mà Thiên Chúa ban cho con người. Mời gọi mỗi người đáp trả lại bằng niềm tin và phó thác mọi sự trong bàn tay quan phòng của Ngài. Tuyển chọn là trung tâm của Kinh Thánh Cựu Ước. Sau những lần Chúa trừng phạt con người, cũng là những lần Chúa tuyển chọn một ai đó để tiếp tục chương trình cứu độ của Ngài, như là một sự thanh lọc. Cuối cùng Thiên Chúa đã chọn dân riêng của Ngài qua Apraham. Qua đó, Thiên Chúa sẽ thực hiện lời hứa cứu độ qua con của ông bà là Ixaac. Để hiểu rõ hơn về chương trình cứu độ của Thiên Chúa thực hiện nơi Apraham, ta cùng đi tìm hiểu sâu hơn về Apraham, trong  Kinh Thánh Cựu Ước.

      II/ Thiên Chúa tuyển chọn Apraham

           Thiên Chúa đã tuyển chọn Apraham từ một thế giới trần luôn trong Tà Giáo, một nhóm ít người, thuộc thị tộc Thare sống tại Ur gần vịnh Ba Tư , Ur cũng thường được gọi là Chalđê. Thị tộc này di chuyển về phía Tây Bắc, đất Haran, gần nguồn sông Euphrates. Thiên Chúa phán với Apraham rằng: “Hãy đi khỏi xứ sở của ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha ngươi, đến đất ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ cho ngươi thành một dân tộc lớn, ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành ngươi, ai mà nói động đến ngươi ta sẽ chúc dữ. Mọi thị tộc trên trần thế sẽ lấy ngươi mà cầu phúc cho nhau(St 12,1-3). Đó là những lời hứa mà Thiên Chúa tự ý hứa với Apraham, con người đã được Thiên Chúa chọn để làm con tàu cứu rỗi. Mặc dầu tội lỗi của con người có ngập tràn nhưng Thiên Chúa luôn quan tâm đến con người và tìm mọi cách để cứu độ con người, đưa con người vào mối hiệp thông với Ngài. Đó là ân sủng nhưng không mà Thiên Chúa dành cho con người, đưa con người vào mối tình phu thê với Ngài.
      Kinh Thánh Cựu Ước là một sự tái diễn không mệt mỏi lời mời gọi của Thiên Chúa và lời đáp trả của Apraham. Qua đó, cho ta thấy Apraham là trung tâm của Kinh Thánh Cựu Ước, không một ai không nêu gương ông, qua ông mà một dân dành riêng cho Thiên Chúa được hình thành, muôn thế hệ noi gương lòng tin của ông. Apraham là người đầu tiên đã đi vào sự hiệp thông và cận kề với Thiên Chúa. Chắc chắn trước ông đã có gia đình ông Noe, đã nhận một sử mạng định mệnh trong cơn lụt Hồng Thủy, nhưng Apraham là người đầu tiên đã bị Thiên Chúa chộp bắt để dành riêng cho một sứ mạng thiêng liêng và đã có được nơi ông câu trả lời do bởi đức tin.
       Thiên Chúa tuyển chọn Apraham để qua đó Ngài thực hiện yêu thương của Ngài đối với dân tộc mà Ngài đã chọn. Những lời mà Thiên Chúa phán với Apraham: " Hãy đi khỏi xứ sở của ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha ngươi, đến đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ cho ngươi thành một dân lớn. Ta sẽ chúc lành cho ngươi và Ta sẽ cho danh ngươi nên lớn lao, ngươi sẽ là một mối phúc lành. Ta sẽ chúc lành cho những ai chúc lành ngươi, ai mà nói động đến, Ta sẽ chúc dữ. Mọi thị tộc trên trần thế sẽ lấy ngươi mà cầu phúc cho nhau”       (St 12,1-3 ). Qua đó, cho ta thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ được thực hiện qua ông và một dân dành riêng cho Thiên Chúa qua dòng tộc của ông. Một ân sủng nhưng không mà Thiên Chúa đã dành cho con người và muôn thế hệ.

   III/ Những thách đố trong tuyển chọn

     1,  Khi tuyển chọn Apraham, Ngài không đòi hỏi ông làm gì nhưng chỉ đòi hỏi ông phải lên đường ngay lập tức “ Hãy đi khỏi xứ sở của ngươi, khỏi quê quán ngươi, khỏi nhà cha ngươi” (St 12,1). Thiên Chúa muốn đặt ông vào một sự bó buộc thay đổi tận căn dòng đời của ông, từ bỏ mọi thứ sau lưng để bước vào một con đường mới, con đường vô định, đầy nguy hiểm mà ông sẽ cảm nghiệm. ông không thể đoán trước được định mệnh của mình, về một xứ sở mà ông chưa từng biết tới. Khi được Thiên Chúa mời gọi, ông đã sẵn sàng lên đường đi theo tiếng Chúa mời gọi, mà không biết mình đi đâu, về đâu. Từ đó cho ta thấy Apraham đã từ bỏ chính mình bằng sự phó thác hoàn toàn con đường của ông cho Thiên Chúa. Apraham từ bỏ chương trình thuộc về trần thế để bước theo một chương trình Thần Linh, một chương trình của Thiên chúa.
       Hình ảnh lên đường của Apraham là lời mời gọi không ngừng của mỗi người. Thiên Chúa luôn mời gọi ta bước theo Người. Muốn được như vậy thì phải từ bỏ chính mình, từ bỏ mọi thứ sau lưng. Cũng giống như Chúa Giêsu nói với các môn đệ của Người “ Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ chính mình vác Thập giá hằng ngày mà theo” hay “ Ai tra tay cầm cày mà còn ngoái lại sau lưng thì không làm môn đệ tôi được” ( Mt 16, 24 ). Apraham là hình ảnh Thiên Chúa dùng trong chương trình Cứu Độ của Ngài để muôn thế hệ noi theo lòng tin của ông.
      2, Thiên Chúa nói với Apraham rằng“Hãy đi đến xứ ta chỉ cho ngươi”(St 12,1). Thật khó lòng bỏ xứ ra đi, nhưng còn khó khăn gấp bội để ra đi mà không biết mình đi đâu, không biết cái đích ở đâu, không biết điều gì sẽ xẩy đến, không biết bao nhiêu thời gian. Qua đó cho ta thấy, Apraham lên đường trong sự vô thức, không biết cái đích phải dừng chân là ở đâu, ông hoàn toàn phó thác quãng đường với biết bao gian khó cho Thiên Chúa.
      Qua đó, Chúa dùng Apraham để chỉ cho ta thấy, con đường theo Ngài có muôn vàn khó khăn, gian nguy. Nhưng những lần như thế ta có biết tìm đến Thiên Chúa là nguồn ủi an, hướng dẫn hay không. Nếu cứ theo ý nghĩ của con người thì không bao giờ đến được cái đích cuối cùng là ở cùng Ngài trên Nước Trời.
       3, Thiên Chúa hứa sẽ ban cho Apraham một người con trai. Nhưng tháng năm vẫn dần dần trôi qua, khi Apraham đã già mà lới hứa ấy vẫn chưa đến với ông. Nhưng dù có gắp gian nan khốn khó cho sự chờ đợi ông vẫn kiên trì chờ đợi và tín thác nới Thiên Chúa với niềm xác tín ấy, Thiên Chúa đã thực hiện và ban cho ông một người con trai và đặt tên là Ixaac. Đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất đối với ông, một niềm vui mà hằng ngày ông vẫn mong chờ. Đó là một ân sủng mà Thiên Chúa dành cho Apraham, đó cũng là ơn cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện qua người con của Apraham và một dân riêng của Ngài được thực hiện.
       4, Khi Ngài ban cho Apraham một người con trai, đó là một niềm vui rất lớn đối với ông, nhưng niềm vui đó Thiên Chúa lấy đi khi Ngài nói với Apraham rằng
“Hãy đem con của Ngươi, đứa con một yêu dấu của Ngươi là Ixaac, đến xứ Môrigia, mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên ngọn núi ta sẽ chỉ cho ngươi”(St 22,2). Một lời phán như tiếng sét đánh ngang tai ông, nhưng ông vẫn không một lời phàn nàn. “Sáng hôm sau, ông Apraham dậy sớm, thắng lừa và đem theo hai đày tớ và con của ông là Ixaac, ông bổ  củi dùng để đốt lễ toàn thiêu, rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo” (St 22,3). Cuộc hành trình của ông kéo dài 3 ngày, đến ngày thứ 3 Apraham ngước mắt lên, thấy nơi đó ở đàng xa, ông nhận ra chính nơi đó là nơi Thiên Chúa dùng để sát tế Ixaac. Mọi thứ đã chuổn bị xong, một cuộc đối thoại giữa IxaacApraham diễn ra rất cảm động:
Ø  Ixaac gọi Apraham một câu rất thân mật “ Cha”.
Ø  Apraham đáp “ Cha đây con ”.
Ø  Cậu nói: “ Có lừa, có củi đây, còn chiên để làm lễ toàn thiêu đâu ”.
Ø  Apraham đáp: “ Chiên làm lẽ toàn thiêu, chính Thiên Chúa  sẽ liệu, con à, rồi cả hai cùng đi” (St 22,7-8).
       Hình ảnh Apraham sát tế Ixaac loan báo trước về ngày chính con một Thiên Chúa cũng sát tế như vậy. Con số 3 đi theo xuất cuộc hành trình ơn cứu độ của Ngài. Cuộc hành trình của Apraham dẫn Ixaac đến nơi Thiên Chúa chỉ định xuất 3 ngày. Rồi cuộc hành trình của Đức Maria trở về nguyên quán của mình cũng 3 ngày. Rồi cả cuộc đời về ơn cứu độ của chính con một Ngài là Chúa Giêsu:  Chúa Giêsu sống ở thế gian 33 năm, 30 năm sống ẩn dật tại Nadaret, 3 năm Ngài đi rao giảng Tin Mừng và chịu khổ nạn và Phục Sinh của Ngài.
    Cuộc đối thoại giữa Apraham Ixaac báo trước về cuộc nói chuyện giữa Chúa Cha và Chúa Giêsu trong vườn Giết-sê-ma-ni.
    Trước khi Ngài bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã Cầu Nguyện với Chúa Cha trong vườn Giết-sê-ma-ni, cùng đi với Ngài vào vườn Giết-sê-ma-ni có các môn  đệ của Ngài. Rồi Người đem 3 môn đệ thân tín cùng đi với Ngài để cùng chia sẻ nỗi buồn tột cùng của Ngài là Phêrô, Giacôbê, Gioan. “ Người bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các ông. Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức. Người đi xa hơn một chút nữa, sấp mình xuống đất mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy, nếu có thể được. Ngài nói “Áp-ba, Cha ơi”, Cha làm được moi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng đừng làm theo ý con, mà làm theo ý Cha muốn” (Mc14,32-36). Cũng giống như Ixaac trước khi đi lên núi đã gọi tiếng “ Cha”. Qủa thực, Apraham đã hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa khi nói “ Lễ vật chính Thiên Chúa sẽ liệu”. Như Chúa Cha đã dùng con một yêu dấu của mình xuống thế để cứu độ con người, đưa nhân loại trở về với Thiên Chúa, tột cùng của ơn cứu độ là cái Chết và sự Phục Sinh của Ngài.

   IV/ Kết luận

       Qua việc tuyển chọn Apraham cho ta thấy ơn cứu độ khởi đi từ Apraham, vượt ra ngoài tính toán của con người, con người luôn phải lên đường đi theo nghịch lý qua lịch sử các Tổ Phụ. Qua đó, Thiên Chúa luôn tỏ hiện Ngài sẽ đến thế gian như là Thiên Chúa của Apraham, Ixaac, Giacop. Tuyển chọn nói lên một hồng ân nhưng không mà Thiên Chúa đã ban cho nhân loại, nó xuyên xuất trong thời Cựu Ước. Một ân ban được trải rộng từ đầu cho đến cuối. Ân sủng và tự do là lời mời gọi giữa Thiên Chúa và con người, nó được thể hiện qua niềm tin. Cứu độ là nhờ đức tin, sự tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa, tình yêu luôn luôn đi bước trước của tự do, và cũng là sự đáp trả tự do của con người, đó là sự đáp trả của Apraham bằng sự tín thác vào Chúa.
     Apraham đã phó thác toàn bộ cuộc sống của mình, ông dùng tất cả mọi tế nhị của đức cậy trông và sự trung thành của mình. Không phải là thái độ của trí óc, nhưng là một sự dấn thân của tấm lòng, một nội lực phát xuất từ bên trong của hữu thể. Đó chính là niềm tin của một người bạn đối với một người bạn.
    Apraham là người đã sinh ra không chỉ dòng giống đông vô số, mà từ đó Đức Kitô đã được sinh ra, mà còn tất cả những kẻ hiến dâng cuộc đời của họ cho Lời của Thiên Chúa như ông. Chúng ta đã được liên kết với Apraham bởi đức tin.

                                                                                    Ant Công Chính

      TÀI LIỆU THAM KHẢO

   1. Kinh Thánh trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước. Bản dịch của nhều Tác Giả, bt Châu Anh Kỳ. < Nhà xuất bản TPHCM 1998 >, 2443.
 2. Nguyên tác “ SALVATION”, Tác giả NEAL M.FLANAGAN,osm, Lịch Sử Cứu Độ Dẫn Vào Thần Học Kinh Thánh, 376.
    3. TANILA Hoàng Đức Ánh thuộc Dòng Đa Minh, Lich Sử Cứu Độ, bt Phạm Gia Thoan,  < Nhà xuất bản Tôn Giáo >, 103.
    4. Nguyên tác: Les Condits de Saint Esprit. Tác giả: Mgr Gérard Huyghe, Những Con Đường Của Chúa Thánh Thần, nd F.ASSIS Lê Văn Thành, bt Nguyễn Thu Hà,                       < Nhà xuất bản Tôn Giáo 2009 >, 223.
    5. Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao OP, Tìm Hiểu Ngũ Thư, tài liệu dùng học lưu hành nội bộ, 226.


Thứ Ba, 14 tháng 5, 2013

CÁC LÝ DO TIN CÓ THIÊN CHÚA


Khoa học ngày một phát triển, nên nhận thức của con người cũng cao. Chính vì thế, con người càng tìm cho mình những lời giải đáp mà họ không thể trả lời được. Để rồi họ suy nghĩ thế giới này do đâu mà có và thực sự có Thượng đế không?. Để giải thích vấn đề này ta có những luận chứng sau:
        1/ Luận chứng hữu thể học: Dựa theo quan điểm của St Anselm để chứng minh có Thiên Chúa, theo hai hình thức: Hình thức một: St Anselm xây dựng hai hữu thể. Một hữu thể hiện diện trong tâm trí và một hữu thể hiện diện trong thực tế. Nếu hữu thể hoàn hảo nhất có thể quan niệm được chỉ hiện diện trong tâm trí mà thôi thì ta gặp phải mâu thuẫn là hiện hữu mà ta có thể quan niệm được một hữu thể hoàn hảo hơn, vừa hiện diện trong tâm trí, lại vừa hiện diện trong thực tế. Cái trung gian đó chỉ có nơi Thiên Chúa. Theo hình thức thứ hai: Với hình thức này Ngài không chỉ nhắm đến sự hiện hữu của Thiên Chúa mà Ngài còn nhắm đến việc Thiên Chúa tất yếu phải hiện hữu một cách độc nhất vô nhị. Để một hữu thể thực sự là vì đại và không có hữu thể nào vĩ đại hơn. Hiện hữu vĩ đại đó chỉ có ở nơi Thiên Chúa. Để rõ hơn về điều này ta lấy một ví dụ: Một tam giác mà không có thuộc tính của nó là tổng các góc bằng hai góc vuông thì không phải là tam giác. Cũng vậy, Thiên Chúa mà không hiện hữu thì không phải là Thiên Chúa. Điểm khác biệt quan trọng là đối với một tam giác, chúng ta không thể nào suy ra là có tam giác hiện hữu hay không, vì hiện hữu không thuộc về tam giác tính. Nhưng đối với hữu thể tuyệt đối hoàn hảo, chúng ta có thể suy ra rằng Ngài hiện hữu, vì hiện hữu là thuộc tính tất yếu của Ngài, không có thuộc tính này thì Ngài không còn là hiện hữu tuyệt đối hoàn hảo.
        2/ Luận Chứng Nguyên Nhân Đệ Nhất Và Vũ Trụ Luận. Luận chứng này do St Toma khai triển. Khác với luận chứng hữu thể học theo quan điểm của St Anselm. Theo St Toma thì mọi sự xẩy ra đều có một nguyện nhân, nguyên nhân này đến lượt mình lại có một nguyên nhân khác và cứ như thế ta sẽ ngược lại quá trình nhân quả. Qúa trình đó hoặc là vô hạn định hoặc phải có một điểm khới đầu gọi là nguyên nhân đệ nhất. Mọi sự trong thế giới chung quanh ta đều là bất tất, nghĩa là mỗi một sự vật trong đó nhẽ ra đã không hiện hữu hoặc nhẽ ra đã hiện hữu một cách khác. St Toma lập luận rằng: nếu như mọi sự đều là bất tất, thì phải có lúc nào đó không có gì hiện hữu. Trong trường hợp như thế, không có gì có thể xuất hiện để mà hiện hữu, vì không có một tác nhân nào cả. Đã có sự hiện hữu nên phải có một hiện hữu nào đó không phải là bất tất. Hiện hữu không phải là bất tất đó chính là Thiên Chúa. Ví dụ như: Con có mặt ở đây là nhờ Cha mẹ con, Cha mẹ con có là nhờ Ông bà nội ngoại và Ông bà nội ngoài có là nhờ ông bà cố tổ và cứ như thế đi đên cái cuối cùng thì cũng phải có một ai đó tạo nên cái căn nguyên này. Căn nguyên đầu tiên này chính là Thiên Chúa.
        3/ Luận Chứng Viễn Đích. Đây là luận chứng phù hợp với mọi tầng lớp. Ai cũng có thể hiểu vì theo luận chứng này mọi sự hiện hữu trên trái đất này không phải là chuyện ngẫu nhiên nhưng là có một ai đó sắp đặt và làm cho vật đó hiện hữu. Mọi vậy hoạt động theo quy trình không phải là tự có mà phải có một nguyên nhân làm cho vật đó hoạt động như vậy. Người đó chính là Thiên Chúa.
        4/ Luận Chứng Luân Lý. Theo hai hình thức. Luận chứng một suy diễn từ quy luật luân lý khách quan để đi tới một Đấng Lập Hữu hay từ tính khách quan của giá trị đạo đức nói chung để đi tới một nền tảng siêu việt các giá trị hoặc từ sự kiện có lương tâm để đi tới một Thiên Chúa mà lương tâm chính là “tiếng nói” của Ngài. Ví dụ: Khi ta phạm tội là lúc ta đi ngược lại với lương tâm của ta và ta cảm thấy xấu hổ, lo lắng. Điều này có nghĩa là trong thâm tâm của ta nghĩ rằng có một Đấng sẽ phạt những lỗi lầm của ta. Chính vì vậy trong cảm thức của con người có lương tâm và lương tâm này luôn hướng đến một Đấng Siêu Nhiên và Thần Linh. Luận chứng thứ hai quả quyết rằng hễ ai nghiêm túc tôn trọng các giá trị đạo đức, coi những giá trị đó có tính cách bó buộc thì phải ngầm tin rằng có một cội nguồn và nền tảng cho những giá trị này. Các tôn giáo gọi giá trị này chính là Thiên Chúa. Trong cuộc sống con người chúng ta có hai thứ luật đó là luật tự nhiên và luật lương tâm. Hai thứ luật này bổ trợ cho nhau để tạo nên một cuộc sống hạnh phúc. Khi ta làm những điều sai trái thì chính lương tâm ta bị cắn rứt và ta sống một cuộc sống kéo theo nhiều thảm hại.
        5/ Lý chứng từ những biến cố và kinh nghiệm đặc biệt. Trong cuộc sống hiện tại của con người, có biết bao những biến cố lạ xẩy ra mà con người không thể lý giải được. Điều này càng xác tín hơn khi một ai đó đi chữa về được khỏi thì càng làm cho họ xác tin hơn là nơi đó có phép lạ thật. Khi được chứng kiến hay những thị kiến bất kì ai thì kể cả người hoài nghi cũng phải tin có Thiên Chúa.
        6/ Xác Suất và Lý Chứng Hữu Thần. Trong con người luân có sự dằng giữa thiện và ác, tin và không tin. Những sự dằng co đó rồi cũng phải tìm đến một điểm cuối cùng là chỉ được chọn một.Theo David Hume khi bàn về lý luận loại suy, nhận định rằng không thể có sự mâu thuẫn của một con người lúc tin lúc không được mà chỉ được quyền chọn một. Ta biết rằng có nhiều vũ trụ và nếu chúng ta nói thêm rằng chúng ta biết một nửa số vũ trụ đó là do Thiên Chúa tạo nên còn nửa kia thì không, thì ta có thể diễn dịch xác suất của vũ trụ chúng ta là do Thiên Chúa dựng nên là một phần hai. Tuy nhiên, khi nói “vũ trụ” là ta đang nói đến toàn bộ những gì hiện hữu chỉ trừ Đấng tạo hóa. Nên ta không thể lập luận theo kiểu “xác suất” được.
        Qua những lý chứng trên, ta nhận thấy tất cả mọi hoạt đồng không phải là tự có mà phải có một nguyên nhân tác thành nên nó và nguyên nhân cuối cùng này giúp cho mọi vật hoạt động. Đó chính là Thiên Chúa. Qua đó, Ta không nên có tham vọng dùng lý trí, toán học hay khoa học để quán triệt về Thiên Chúa, vì đây là phạm vi đức tin, siêu hình. Một Thiên Chúa mà dùng lý trí, khoa học có thể phân tích và chứng minh được như những thực tại khác thì đâu còn là Thiên Chúa nữa. Màu nhiệm về Thiên Chúa, về đức tin luôn có một phần mà lý trí không thể đạt tới. Những gì lý trí đạt được chỉ có tính cách loại suy. Phần mà lý trí không đạt tới gọi là phần mở lối cho đức tin.
        Trước những lý chứng về Thiên Chúa hiện hữu, con người được kêu mời tự do chấp nhận hay khước từ. Quyết định này tùy thuộc vào lòng mến, sự khao khát tìm kiếm, lời cầu xin và thiện chí của con người. Như lời Chúa nói: “ lạy cha, cha đã dấu không cho những người hiền triết và khôn ngoan biết những điều đó, nhưng cha lại mặc khải cho những kẻ hèn mọn, vì ý Cha muôn như vậy ” (Mt 11, 25-26). Cũng vậy , khi ta nhìn mọi cảnh vật thiên nhiên thật bao la hùng vĩ, muôn tinh tú trên trời cho ta suy đoán chắc chắn về một Đấng vô cùng thông minh, quyền năng, là nguồn gốc và cùng đích của vũ trụ. Như Diderot nói: Mắt và cánh của một con bướm đủ đánh đổ một nhà thần học. Cũng như Thanh Augustino nói: Vẻ đẹp của vạn vật là một lời tuyên xưng. Những cái đẹp này đều chịu sự thay đổi, vậy thì ai đã làm nên những vẻ đẹp này, nếu không phải là Đấng Đẹp Tuyệt Đối, không chịu sự thay đổi.
        Nhìn mọi vật xung quanh và nhìn vào chính bản thân ta. Hết thảy mọi sự đều có lúc sinh ra và có lúc tan biến hay chết đi. Vậy nếu như ta tự có nguồn sống, thì ta phải bất diệt và tồn tại mãi. Nhưng thực tế có ai sống được mãi đấu. Tất cả đều phải chết. Điều này chứng tỏ sự sống không ở trong ta nhưng ở nơi một Đấng khác. Đấng ấy chính là sự sống vĩnh cửu. Tất cả mọi sự không phải ngẫu nhiên mà có nhưng phải có một Đấng tạo thành.
        Con người không bao giờ tìm thấy những thỏa mãn hay những khát vọng nơi những thực tại trần thế. Chỉ có nơi Thiên Chúa con người mới tìm thấy chân lý tuyệt đối và hạnh phúc mà thôi. Nơi con người có sự rộng mở, biết đón nhận những cái đẹp, cảm thức về điều thiện luân lý, có ý thức về tự do và có lương tâm. Đó chính là dấu hiệu và mần sống vĩnh cửu mà con người mang trong mình mà không chỉ đơn giảm là vật chất mà thôi. Linh hồn con người chỉ có thể có nguồn gốc nơi Thiên Chúa. Con người là sinh vật có lý tính. Nghĩa là mỗi hành vi của nó đều được hướng dẫn và phê phán do một quy luật tự nhiên đã được nghi khắc trong tâm hồn. Gọi là lương tâm hay quy luật đạo lý. Chính vì vậy, mọi hành vi và hành động của tôi chính là lương tâm tôi đánh giá chứ không phải người khác đánh giá về tôi. Tôn giáo và xã hội không đặt ra luật đó, vì nó có trước cả tôn giáo và xã hội. Cho nên tất cả những đặc tính của luật đều phải được đặt trên nền tảng trên sự Thiện Tuyệt Đối, ý muốn của Ngài là điểm quy chiếu mọi sự. Đấng ấy chính là Thiên Chúa.

Tài liệu tham khảo:
1.   John Hick, Triết học tôn giáo, Dịch giả: Nguyễn Thiên Phước.
2.   Anphong Nguyễn Công Vinh, Tìm Về Sự Thật.

                                                         Ant Công Chính

SOCRATE ĐÃ TÁCH LOGOS RA KHỎI MYTHOS


Logos: là vũ trụ luận, giải thích các sự việc dưa trên các ý niệm, khi dánh giá một sự vật thì nhìn sâu bên trong để đánh giá sự vật đó tốt hay sấu. Qua đó, ta tin tưởng hơn về cái mà ta nhìn nhận là đúng
  Mythos: Cho biết sự thật nhưng không giải thích được vấn đề đưa ra. Đó chỉ là những câu chuyện được lưu truyền từ đời này qua đời kia, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng , tình bằng hữu, Thần Thánh, cùng đích của cuộc đời. Những huyền thoại này được chấp nhận như sự thực, mặc dầu không ai chứng kiến những biến cố được mô tả trong cốt chuyện đó, cho dù những bài học được tút ra từ những huyền thoại ấy không phải luôn luôn đồng nhất với nhau.
   Socrate đặt ra vấn đề là phải tự cai quản bản thân, chỉ làm theo những gì lý trí tán thành hay sai bảo. Theo quan niệm của ông về sự thiện và  đức hạnh là:
 -  Quan niệm về sự thiện: Nghĩa là mục tiêu thật sự của đời sống là hạnh phúc. Điều tốt là điều giúp ta hạnh phúc, nhưng chủ yếu không phải là một hạnh phúc nào đó. Hạnh phúc mà người tầm thường vẫn gọi như là của cải, tiền bạc, quyền hành, danh vọng. Chúng không phải là điều thiện thật sự vì thường cũng sinh ra sự bất hạnh. Nhưng sự thiện phải là hạnh phúc của tâm hồn, là niềm vui nội tâm mà một linh hồn mạnh mẽ và hài hòa hay đức hạnh đem lại cho chúng ta.
 -  Quan niệm về đức hạnh:  Socrate yêu cầu là sự nhận thức rõ ràng Thiện và Ác, Công lý và bất công, điều kiện này cần và đủ cho Đức Hạnh. Đức Hạnh hàng đầu và trung tâm của đạo đức học của  Socrate là làm chủ bản thân, khi nó dành ưu tiên cho lý tính phải luôn được tuân thủ để suy tư, để sống hay để chết.
- Socrate đi tìm định nghĩa đạo đức bằng cách bàn cãi với các môn đệ của mình để tìm kiếm cách nhận thức đạo đức của họ, Ông quan niệm phải đi sâu vào những tâm hồn, đối tượng đúng của lý tính phải được nhận biết với sự đồng thuận của các tinh thần, nên người ta khám phá bằng bàn luận. Theo tinh thần của Socrate là sự khiêm nhường tri thức: trước hết phải biết rằng mình không biết gì. Socrate tìm cách hỏi các môn đệ để rút ra những chân lý từ tinh thần họ, có sẵn trong họ.

- Khi có ý kiến của người đối thoại, Socrate giả vờ chấp nhận và rút ra một số kết luộn, kể cả những kết luộn kì cục nhất. Người đối thoại bối rối về cách diễn dịch của ông, sau cùng phải từ bỏ định nghĩa ban đầu và Socrate yêu cầu người ấy tìm một định nghĩa khác.
- Những câu trả lời chịu sự phê phán được đem ra giải thích, qua đó ông so sánh những dữ kiện thu thập được để rút ra ý niệm được coi là mục đích của sự tìm tòi.
   Qua cuộc đối thoại giữa SocrateEuthyphro cho ta thấy, Socrate đã tìm đủ mọi cách để làm sáng tỏ và đi đến cái cuối cùng của đạo đức. Khi nhận được yêu cầu của Socrate, Euthyphro đã đưa ra một định nghĩa là “ đạo đức là là làm những gì chàng đang làm là : kết tội Cha mình”. Socrate cho cho rằng đây mới chỉ là ví dụ mà thôi chứ chưa phải là một định nghĩa, vì nó chưa xác định rõ ý niệm, hình thức của đặc tính  đạo đức. Euthyphro định nghĩa tiếp đạo đức là “ làm đẹp lòng Thần Thánh”  Socrate cho rằng nếu có những điều làm đẹp lòng vị Thần Thánh này, thì lại không làm đẹp lòng những vị Thần khác, trong trường hợp này có cùng một điều là vừa đạo đức và vừa phi đạo đức. Rồi  Euthyphro tiếp tục định nghĩa “ đạo đức là những gì được tất cả Thần Thánh yêu thích”. Socrate cho rằng với định nghĩa này nó chưa cho chúng ta biết chủ thể của hành vi đạo đức, mặc dù cũng có thể đúng, khi nói rằng tất cả những gì Thần Thánh yêu thích đều là đạo đức, nhưng một hành vì không trở nên đạo đức chỉ vì các Thần Thánh yêu mên nó, mà đúng hơn, các Thần Thánh yêu mến hành vi ấy, vì trước hết nó có tính đạo đức. Euthyphro tiếp tục một định nghĩa khác là “ đạo đức là yếu tố công chính mới thật phục vụ các Thần minh”. Khi Socrate hỏi phục vụ các Thần minh là gì thì Euthyphro trả lời đó là nghĩa vụ phải làm để phục vụ các Thần minh, là hiến tế và cầu nguyện. Nghĩa vụ này có nghĩa là, dâng lên Thần Thánh và đón nhận từ Thần Thánh, Socrate hỏi dâng lên Thần Thánh cái gì thì Euthyphro trả lời dâng lên Thần Thánh những gì đẹp lòng các vị ấy. Đến đây Euthyphro mới nhận thấy có sự mâu thuẫn và cuối cùng ông chấp nhận không định nghĩa đạo đức là gì.
     Qua đó, Socrate đã khai sáng cho Euthyphro những điều mình nói phải suy nghĩ thật kĩ và đặt ra mọi trường hợp để đi đến cái cuối cùng trước khi cho đó là chắc chắn và đúng nhất, từ đó cũng cho Euthyphro hiểu rằng khi đánh giá một sự việc ta nên dựa vào: giác quan, tri giác, tri thức và cái chắc chắn nhất là lý trí con người.

                                                                                       Ant Công Chính

CÂU CHUYỆN HỒNG THỦY VÀ ƠN CỨU ĐỘ CỦA CHÚA


       Bạn thân mến:
       Lụt đại hồng thủy được kể lại nhằm giúp mỗi người nhận ra tội lỗi. Từ đó, con người, tội lỗi đã xúc phạm đến Thiên Chúa, Đấng dựng nên con người. Đồng thời cũng nói lên tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa trước tội lỗi, Người vẫn để lại một gia đình sống sót qua nạn hồng thủy đó là gia đình Nô-ê, “Thiên Chúa vẽ đường thẳng trên những đường cong”. Và Thiên Chúa đã lập giao ước với con người để con người được ơn cứu độ. Đó là niềm vui và hy vọng của con người sẽ được lãnh nhận từ chính Thiên Chúa, Đấng luôn giữ trọn, trung thành với lời đã hứa.
1.     Nguyên nhân xảy ra câu chuyện nạn Hồng thủy
       Loài người đã sa đọa đến tận thân tâm. Trước sự sa đọa vô phương cứu chữa đó của con người, Thiên Chúa đã phàn nàn, hối tiếc vì đã dựng nên họ. Sách sáng thế (St 6, 5 – 7) diễn tả cho ta biết: Đức Chúa thấy rằng sự gian ác của con người quả là nhiều trên mặt đất và lòng nó chỉ toan tính những ý định xấu xa suốt ngày. Đức Chúa hối hận vì đã làm ra con người trên mặt đất và Người buồn rầu trong lòng. Đức Chúa phán: “Ta sẽ xóa bỏ khỏi mặt đất con người mà Ta đã sáng tạo, từ con người cho đến gia súc, loài bò sát và chim trời, vì Ta hối hận đã dựng nên chúng”. Lối nói “như nhân” này cho ta thấy tình trạng loài người thê thảm đến mức nào. Tội lỗi đã lan tràn đầy mặt đất, và là một cái gì đó không hiểu được. Việc Thiên Chúa xúc động mạnh cũng có nghĩa việc Người tiêu diệt sự sống trên mặt đất không phải là một cách thản nhiên, lạnh lùng. Nhưng đó như là một hậu quả tất nhiên của tội, một đòi hỏi của sự thánh thiện của Người. Đồng thời súc vật cũng cùng chung số phận với con người là bị tiêu diệt, vì chúng được dựng nên để phục vụ con người.
       Thiên Chúa tỏ ra rất nghiên khắc, nhưng cũng rất nhân từ, khi gìn giữ, cứu sống ông Nô-e và gia đình thoát khỏi lụt hồng thủy, vì ông sống thực thi những lời Đức Chúa truyền dạy, và được đẹp lòng Người (x. St 6,8).     
       Thiên Chúa đã chọn ông Nô-e, Người đã tỏ cho ông, đồng thời cho ông đóng một chiếc tàu. Chiếc tàu có thể chứa được tám người, cùng các con súc vật và những vật dụng cần thiết. Ông Nô-e đã vâng lời Đức Chúa và bắt tay vào việc thực hiện như lời Người phán với một lòng tin tưởng không nghi nan hay hỏi han, thắc mắc điều gì. Như vậy, các sinh vật liên đới với con người trong hình phạt thế nào thì cũng sẽ liên đới trong ơn được cứu sống. Các con vật được đưa vào tàu, với nguồn tư tế thì mỗi loài một đôi. Với nguồn cổ xưa thì mỗi loài thanh sạch là bảy đôi, còn loài ô uế thì một đôi. Còn bảy ngày nữa là lụt hồng thủy sẽ xảy ra, Đức Chúa đã bảo ông đưa gia đình và súc vật thanh sạch cũng như ô uế vào tàu để tránh lụt hồng thủy. Ông Nô-e đã thi hành mọi điều Thiên Chúa truyền cho ông (x.St 7,1-6). Khi gia đình ông và mọi súc vật vào trong tàu, Thiên Chúa đóng cửa tàu lại để nước không vào trong được.
       Năm 600 đời ông Nô-e. Tháng 2, ngày 17 tháng ấy, các mạnh nước của vực thẳm rộng lớn đã bật tung, các cống trời mở toang, nước lũ cuồn cuộn càng lúc càng mạnh trên mặt đất phun lên, và nước mưa trên vòm trời đổ xuống mặt đất bốn mươi ngày bốn mươi đêm (x.St 7,11-12). Mọi núi cao khắp nơi dưới gầm trời đều bị phủ lấp. Mọi xác phàm di động trên mặt đất đều tắt thở. Thiên Chúa xóa sạch mọi loài trên mặt đất, từ con người cho tới gia súc, chỉ còn lại gia đình ông Nô-e và những gì ở trong tàu với ông. Nước lũ cuồn cuộn trên mặt đất một trăm năm mươi ngày (St 7,23-24).
       Khi đã nguôi cơn giận, Thiên Chúa nhớ đền ông Nô-e và mọi thú vật trong tàu của ông. Thiên Chúa đóng các mạnh nước và cổng trời lại, và cho một cơn gió thổi làm cho nước rút đi. Sau bốn mươi ngày, ông thả chim bồ câu trong tàu ra để kiểm tra xem nước đã rút hết chưa. Trong tàu, ba lần ông No-e thả chim bồ câu cho thấy thời tiết thuần hóa dần dần:
       Lần thứ nhất, nó trở về tức khắc, vì nước vẫn tràn ngập hết.
       Lần thứ hai, tới chiều nó mới trở về, mang theo một nhánh ô-liu non.
       Lần thứ ba, ông thả bồ câu ra, và lần này nó không trở về nữa, và ông hiểu là nước đã rút cạn hẳn.
       Ông rỡ nóc tàu và cả gia đình cung súc vật ra khỏi tàu. Ông và gia đình lập bàn thờ và dâng kính Đức Chúa của lễ toàn thiêu các súc vật thanh sạch. Đức Chúa đã ngửi thấy mùi thơm từ của lễ ông Nô-e dâng kính, đã làm cho Thiên chúa nguôi giận. Và Người đã “đơn phương” kí kết giao ước với ông Nô-e, Đức Chúa nói với lòng mình: “Ta sẽ không còn nguyền rủa đất đai vì con người nữa. Hẳn, từ niên thiếu lòng con người vẫn toan tính điều xấu xa, nhưng ta không còn đánh giết mọi sinh vật như ta đã làm! Bao lâu đất này còn, thì mùa gieo mùa gặt, trời lạnh và trời nóng, tiết hạ với tiết đông, ban đêm với ban ngày, sẽ không ngừng đắp đổi” (St 8,21-22).
       Sau đó, Thiên Chúa chúc lành cho gia đình ông Nô-e và thiết lập một trật tự mới sau lụt hồng thủy, loài người được lệnh sinh sôi nảy nở thật nhiều cho đầy mặt đất. Thay vì an bình thư thái thì con người phải chiến đấu, con vật chỉ quỵ lụy con người, khi con người làm cho chúng khiếp sợ. Con người được ăn thú vật, nhưng không được ăn máu chúng vì nó biểu hiện cho sự sống. Một điều nữa là Thiên Chúa cấm kỵ con người làm đổ máu kẻ khác, Người sẽ trừng phạt tử hình kẻ giết người, và ngay cả thú vật làm tôn thương nhân mạng cũng bị giết. Đó là vì con người được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa (x.St 9,1-6).
       Đồng thời Thiên Chúa thiết lập giao ước với ông Nô-e, gia đình và tất cả các loài từ tàu đi ra, cùng với tất cả dòng dõi những người ấy từ này về sau. Thiên Chúa sẽ không bao giờ khiến lụt hồng thủy hủy diệt các vật như trước nữa. Giao ước này được Thiên Chúa đơn phương ký kết với con người mà không cần con người phải cam kết điều gì đối với Người. Đó là một giao ước, một ân huệ, có giá trị như một di chúc. Vì thế mà dấu chỉ minh ước của nó ở giữa trời và đất được chọn là một cái “cầu vồng”. Cầu vồng là một hiện tượng đẹp của trời đất, chỉ sự trường tồn của luật thiên nhiên, tượng trưng cho minh ước vĩnh cửu (St 9,16-17). Mặc dầu tội lỗi và bạo lực nơi con người là nguyên nhân của nạn hồng thủy. Tuy nhiên, lòng thương xót và kiên nhẫn của Thiên Chúa vượt trên những xấu sa đó. Người duy trì lời chúc phúc nguyên thủy và bảo đảm sự trường tồn của vũ trụ, trong đó Thiên Chúa sẽ thực hiện công trình cứu độ.[1]
2.     Ý nghĩa nổi bật của câu chuyện nạn Hồng thủy.
Lụt Hồng thủy được nói đến trong sáng thế và Cựu ước:
Trong sách thánh coi lụt hồng thủy như là một hình phạt thích đáng cho những người quá ư trụy lạc đến vô phương cứu chữa. Tội lỗi đã lan rộng đến mức độ vượt qua cả ranh giới giữa trời và đất, ý nghĩa này được nhấn mạnh trong (St 6,5-8; 8,21-22) là: “lòng con người toan tính điều xấu”. Theo văn hóa Hi-lạp, trái tim trước hết không phải là trung tâm tình cảm nhưng là tri thức và ý muốn. Do đó, điều nhấn mạnh ở đây là toàn bộ suy tư và đời sống con người đã ra xấu xa, tội lỗi không những gây hại giữa người với nhau, mà còn xúc phạm đến Thiên Chúa: Ngài đã “buồn” vì tội lỗi của con người.[2]
Thiên Chúa rất mực thánh thiện và công chính không thể làm ngơ mà không trừng phạt tội lỗi. Hình phạt là một điều chắc chắn mà Thiên Chúa sẽ xét xử và không tội nhân nào thoát được. Nhưng Người vẫn đầy lòng thương xót nhân loại, Người muốn cứu nhân loại bằng cách cứu một phần dư tồn là người công chính là ông Nô-e và gia đình của ông, làm như mầm mống để tái lập nhân loại sau lụt hồng thủy. Và cũng vì thương mà từ nay Thiên Chúa nhẫn nại chịu đựng, không thi hành xét xử “nhãn tiền” với nhân loại tội lỗi.
Lụt Hồng thủy được nói tới trong Tân ước và Kitô giáo:
Trình thuật này đã được vận dụng vào đời sống của Hội thánh một cách hết sức phong phú. Nước hồng thủy được coi như là hình bóng của bí tích Thánh tẩy. Cũng  như nước hồng thủy vừa hủy diệt nhân loại tội lỗi vừa tác sinh nhân loại mới. Nước Thánh Tẩy cũng tha thứ tội lỗi và biến đổi chúng ta thành những con người mới. Đồng thời cũng tiên báo sự xét xử thời cánh chung. Bây giờ, Thiên Chúa đang kiên nhẫn chờ đợi, nhưng ta phải tỉnh thức vì ngày xét xử cũng sẽ đến bất ngờ như thời ông Nô-e và sẽ hủy diệt những kẻ tội lỗi bằng lửa (x. 2Pr 3,2-10).
Trong thư của thánh Phêrô tông đồ (1Pr 3,20) đã ám chỉ con tàu của Nô-e là hình ảnh tiên trưng cho Hội thánh trên đời này. Nhờ con tàu ông Nô-e duy nhất cứu ông và gia đình là phần dư tồn của nhân loại được cứu qua cơn đại hồng thủy, thì những ai sống trong Hội thánh là con tàu dẫn con người tới nguồn ơn cứu độ.[3]  Nô-e cũng là hình ảnh loan báo Chúa Kitô, Đấng là Đầu của nhân loại mới được canh tân trong Chúa Kitô nhờ bí tích Thánh Tẩy (8,20). Nô-e dâng lên Thiên Chúa hiến lễ đẹp lòng Người, và Thiên Chúa đã thiết lập một giao ước bao gồm cả nhân loại chứ không giới hạn cho một dân tộc, như trong sáng thế (St 9,8-11) Thiên Chúa nói với Nô-e: “Đây Ta lập giao ước của Ta với các ngươi, với dòng dõi các ngươi sau này. Mọi xác phàm sẽ không còn bị nước hồng thủy hủy diệt, và cũng sẽ không còn có hồng thủy để tàn phá mặt đất nữa”. Giao ước này loan báo giao ước tối hậu được thực hiện trong Chúa Kitô.
3.     Bài học nạn hồng thủy trong đời sống đức tin.
Nguyên nhân xảy ra trận lụt hồng thủy là do tội lỗi con người. Thiên Chúa đã phạt con người một cách nhãn tiền, cho nước tẩy rửa hết mọi tội lỗi trên mặt đất. Tuy thế, Thiên Chúa vẫn cứu sống một người. Một gia đình biết vâng nghe, tin và thực hành như lời Người truyền dạy cho dù không trông thấy.
Sự sống của con người không do mình tạo ra, mà do Thiên Chúa ban cho. Nên trong cuộc sống thường ngày, con người luôn ý thức Chúa đang hiện diện và đồng hành, hãy ký thác mọi biến cố vui buồn…dâng tất cả lên cho Ngài với lòng biết ơn và yêu mến, như xưa khi ra khỏi tàu gia đình ông Nô-e lập bàn thờ và tiến dâng lên Thiên Chúa của lễ toàn thiêu, của lễ đã được Thiên Chúa ưng nhận.
Là con người thì không thể tránh hết những sai lầm trong cuộc sống. Thiên Chúa là Đấng nhân hậu và giàu lòng thương xót nên đã cứu vớt gia đình ông Nô-e. Do đó, khi con người mắc những sai lỗi với Chúa, với tha nhân thì thật lòng chạy đến với Thiên Chúa để được ơn giao hòa, và được ân nghĩa cùng Người.
Con tàu ông Nô-e trong lụt hồng thủy cũng là hình bóng của con tàu Hội thánh đang lữ hành trần thế. Con tàu đã cứu duy nhất gia đình ông Nô-e ra khỏi lụt hồng thủy. Hội thánh cũng là con tàu cứu độ. Từ đó, có một câu nói danh tiếng: “Ngoài Hội thánh không có ơn cứu độ”[4]. Như vậy, phải chăng tất cả mọi người ngoài Hội thánh công giáo thì không được ơn cứu độ?. Trước băn khoăn đó, Công đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Những người không biết đến Tin Mừng của Đức Kitô và Hội thánh Người mà không do lỗi của họ, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và dưới tác động của ân sủng, cố gắng chu toàn thánh ý của Ngài bằng các công việc theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể đạt được ơn cứu độ muôn đời”[5]. Như vậy, người không cùng niềm tin tôn giáo với Hội thánh công giáo, mà thực hiện những chỉ dẫn của Công đồng trên thì cũng được ơn cứu độ muôn đời.
4.     Kết luận
Câu chuyện về đại hồng thủy vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Sau nạn hồng thủy, Thiên Chúa đã kí kết giao ước với con người qua muôn thế hệ là sẽ không cho nước tàn phá và giết hết con người sống trên mặt đất nữa (x.St 9,8-11). Và Thiên Chúa đã tỏ tình yêu, lòng thương xót của Người qua việc từ nay Thiên Chúa “nhẫn nại” chịu đựng, không thi hành ngay sự xét xử đối với nhân loại tội lỗi. Đó là một cơ hội tốt cho những ai biết ăn năn trở lại sau những tháng ngày đắm chìm trong “vũng bùn” tội lỗi. Và cũng thật là vô phúc cho những ai không nhận ra tình yêu và lòng thương xót của Chúa khi không tìm đường trở về sau bao phen tội lỗi.
Trong xã hội này, tội lỗi xấu xa cũng không kém phần như trong câu chuyện nạn hồng thủy. Sống trong một xã hội như thế, hình ảnh của ông Nô-e luôn biết lắng nghe tiếng Chúa nói và thực thi lời Chúa truyền dạy cho dù con mắt xác thịt ông không trông thấy. Hình ảnh đó giúp và khơi dậy trong tâm hồn con người ngày nay phải biết lắng nghe tiếng Chúa qua Lời của Ngài trong Kinh Thánh, cũng như trong mọi biến cố cuộc sống. Và thực hành là điều tiên quyết qua việc làm việc lành tránh việc xấu, trở nên người công chính trước mặt Thiên Chúa và con người.
Như thánh tông đồ Phêrô nói trong thư của Ngài là: Anh hãy sẵn sàng trả lời cho những ai chất vấn về niềm tin và niềm hy vọng vào Đấng mà anh em đang rao giảng và hãy trả lời cho họ một cách hiền hòa và kính trọng (x.1Pr 15-16).
                                                                          Nguyễn Văn Đoàn
                                                                             Chỉnh sửa: Công Chính


[1] x. Sách học hỏi Kinh thánh: Tìm hiểu Sáng thế 1-11, tr 112
[2] x. Sách học hỏi Kinh thánh: Tìm hiểu Sáng thế 1-11, tr 112
[3] x. Lm Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao. O.p, Tìm hiểu Ngũ Thư, , tr 123
[4] x. ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Đường Về Emmaus - học Thánh kinh trong 100 tuần, Nxb Tôn giáo, tr 32.
[5] Hiến chế tín lý về Giáo hội, số 16

LỪA DỐI CHÍNH MÌNH


Bạn thân mến:
        Con người là một điều bí ẩn nhất và là nguồn của mọi nhận thức. Không ai có thể hiểu thấu tận căn con người mình. Con người là mỗi quan tâm hàng đầu của tất cả mọi lĩnh vực. Mọi phát sinh, mọi thất bại và mọi ô nhiễm cũng từ con người mà ra. Ngay trong chính bản thân con người mình cũng có sự khác biệt. Cái tay không thể đụng chạm được chính cái tay của nó và ngón tay cũng không thể nào tự đụng đến ngón tay nó. Chính vì vậy, trong con người có sự không hiểu nhau thì làm sao có thể hiểu được người khác cách chắc chắn và chia sẻ cho nhau cách trung thực được. Trong con người luôn có sự chọn lựa xấu hoặc tốt. Trong bản thân con người nhiều lúc chính mình cũng không hiểu chính mình. Nhiều lúc đã tự lừa dối chính mình để được tư lợi cho bản thân. Khi nhìn đến đề tài này chắc các bạn sẽ thật lực cười và đặt ra những câu hỏi mình mà không biết mình thì con làm được chuyện gì ?. Làm sao có sự mâu thuẫn như vậy được ?. Những câu hỏi này sẽ được giải đáp trong phần này. Giúp các bạn phần nào hiểu được chính con người mình. Trong đề tài này tôi sẽ đi vào ba vấn đề mà chính con người tự lừa dối chính mình.
          1/ Ta tự cho phép mình mắc sai lầm. Con người không có cái gì là không có thể làm cả. Ngay cả bản thân mình cùng tự lừa dối mình. Trong con người tiền thức vô thức có khả năng chiếm trọn mọi tính cách và hành động của mình. Tiềm thức vô thức đó một khi trỗi dậy làm chi phối con người ta. Trong con người luôn có sự dằng co giữa ý thức và vô thức. Hai bản năng đó luôn hiện diện trong con người, để điều khiển và thúc giục con người nên làm hay không nên làm. Đó là một sự chọn lựa để sau khi chọn thì lương tâm ta không bị áy láy vì hành động đó. Trong con người, nhiều lúc ta tự cho phép mình mắc những sai lầm. Cho phép mình tự lừa dối chính mình. Đó là cách mà con người tự an ủi mình và giúp mình đứng lên mỗi khi làm những điều sai trái. Trong cuộc sống thường ngày ai cũng có những lúc sai trái nhưng nếu cứ ỷ lại và luôn nghĩ rằng mình được quyền sai trái thì còn gì là ý nghĩa của cuộc sống nữa. Để rồi những điều mình không được phép sai trái mà ta luôn nghĩ mình được phép sai thì công việc và xã hội này sẽ đảo lộn và làm cho bản tính con người luôn chiều theo những việc sai trái. Bạn đã bao giờ khi Cha mẹ bạn nhờ bạn một công việc gì mà bạn không có thích mà bạn lại vâng lời cách nhanh chóng là đi làm luôn không ?. Có bao giờ một việc mà mình không thích mà có ai nhờ bạn sau đó bạn làm ngơ sau khi người đó hỏi lại là bạn quên chư ?. Thực chất trong tất cả mọi cái quên của bạn là bạn nhớ rất rõ nữa. Chỉ vì những lý do ngoại tại nên bạn đã tự lừa dối chính mình là cho phép mình được quên vì chuyện đó để cho tâm trí mình đươc yên.
          Trong Tin Mừng (Mt 21,28-32) có nói tới câu chuyện về hai người con trai. Một hôm người Cha nói với hai người con trai: Người Cha nói với người con thứ nhất rằng: Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho. Nó đáp: Con không muốn đâu. Nhưng sau đó, nó hối hận, nên nó đi. Ông lại đến gặp người con thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: Thưa ngài, con đây! nhưng rồi lại không đi. Qua đoạn Tin mừng trên cho ta thấy có hai cảnh tượng. Một cảnh tượng là trả lời với Cha là không đi. Nhưng sau đó nghĩ lại rồi lại đi. Sở dĩ người con này nghĩ lại vì trong bản tính của con người thường có những phản hồi ngay tức khác. Việc phản hồi đó càng nhanh khi việc được giao là việc mình không thích và không mong muốn. Chính những phản hồi ngay lập tức đó nên thiếu sự suy xét nên dẫn đến những sai lầm. Khi người con này nghĩ lại thì nhận ra là mình đã sai. Trong thâm tâm anh ta cảm thấy mình mắc lỗi với Cha. Vì nghĩ rằng cơm áo ta mặc đều do công ơn của Cha mà hôm nay Cha nhờ con mà con lại không làm thì quả là một điều lỗi lớn đối với Cha. Sự phản hồi của anh ta lúc đó là do bản năng thúc giục anh ta chứ thật sự anh ta không có muốn như vậy. Anh ta tự xác định lại căn tính con người anh ta nên anh ta đã đi. Anh ta đã tự biết mình và không muốn lùa dối sự lười biếng của mình nữa và anh đã quyết định ra đi để sửa sai.
Hình ảnh người con thứ cho ta thấy rất rõ là anh ta đã tự lừa dối mình, tự lừa dối người Cha của mình. Anh ta đã sống hai mặt với chính con người của mình. Khi được người Cha mời gọi anh ta đi làm và anh đã đáp lại cách mau mắn là dạ con đi làm. Nhưng thực chất lúc này trong thâm tâm anh là cứ vâng lời cho qua chuyện để lấy lòng người Cha trước. Còn đi làm hay không là quyền của mình. Trong thâm tâm anh ta là anh sẽ không đi là. Mặt ngoài của anh ta tỏ ra là một người con rất ngoan ngoãn, hiền lành vâng lời Cha cách triệt để. Nhưng trong lòng anh ta thì cả một sự den tối, một sự chống đối Cha cách mãnh liệt. Tự lừa dối mình để được lòng người Cha. Để thể hiện uy tín của mình là người con tốt.
Qua đây, mỗi người trong chúng ta cũng hãy nhìn vào bản thân của ta xem, đã có bao giờ mình sống hai mặt với những người xung quanh Chưa ?. Tôi tin chắc rằng ai trong chúng ta cũng có, không những thế mà còn hại biết bao người nữa là đang khác. Tôi không phải vu khống cho các bạn những điều đó. Tôi xin được lấy một số ví dụ để chứng minh điều của tôi. Các bạn đã bao giờ thật lòng với chuyện thi cử chưa ?. Các bạn đã bao giờ nói dối Cha mẹ chưa ?. Các bạn đã có bao giờ cãi lời cha mẹ chưa. Các bạn đã có bao giờ làm cho Cha mẹ các bạn phải buồn phiền chưa ?. Các bạn đã có bao giờ làm cho người yêu mình phải thất vọng về mình Chưa ? Các bạn đã bao giờ lừa người yêu hay một người bạn nào đó chưa ?. Hàng loạt những câu hỏi đó sẽ là điêm nhấn cho các bạn suy nghĩ về chính mình. Đây cũng là cơ hội không những cho các bạn mà cho chính tôi cũng được nhìn lại bản chất thật con người của mình. Chắc có lẽ bạn và tôi chưa một lần ngồi nhìn lại bản thân của mình có những gì và thiếu những gì, nó đẹp hay nó xấu. Tại vì nhiều lúc chính hành động của tôi cũng không biết là tôi đang làm cái gì nữa. Nhiều lúc tôi không phải là chính tôi. Đó là điều nói dối thứ nhất.
2/ Điều thứ hai trong cuộc sống, mình tự dối mình là luôn khẳng định “việc xấu đó sẽ không sẩy ra đối với bản thân mình và điều xấu đó sẩy ra đến với người khác”. Điều này tự biện minh cho hành động sai trái của mình. Không nhận lỗi làm về mình. Khi một tập thể hay sống trong một làng xóm, chỉ vì tư lợi cá nhân mà mình đã lấy của người khác các đồ dùng nhưng không muốn người khác nghĩ mình là người ăn trộm nên đã tìm đủ mọi cách để đổ lỗi cho người khác để mình không bị mắc vào thói ăn trôm. Nhưng thực chất việc đó lại do mình gây nên.
          3/ Điều thứ ba cho phép mình tự lừa dối mình là luôn tự cho mình là “con nhiều thời gian mà”. Khi một bài kiểm tra Thầy giáo đưa ra để làm nhưng trong thâm tâm chính bản thân ta luôn nghĩ rằng mình còn nhiều thời gian để làm bài này. Bây giờ ta cứ chơi cho thoải mái đã vội gì phải làm gấp gáp như vậy. Chính vì ta tự lừa dối mình nên ta đã để cho thời gian trôi đi cách vô nghĩa. Luôn nghĩ rằng trong khoảng thời gian dài đó chỉ cần hoàn thiện một bài kiểm tra là đủ nhưng ta không ý thức rằng còn biết bao công việc đang còn dở dang chờ ta làm.
          Đó là những điều mà con người thời nào cũng mắc phải không ít thì nhiều. Trong con người có sự tự lừa dối mình nên có biết bao những hành động sai trái, những lời nói làm thương hại đến đồng loại. Luôn tự cho mình là đúng và phủ nhận những sai trái của mình đã làm thương hại đến biết bao nhiêu người. “điều tốt tôi muốn tôi lại không làm còn điều xấu tôi không muốn tôi lại làm”. Đây cũng là một điều mà biết bao con người gặp phải. Chung quy lại cũng chỉ vì bản tính tự biện minh cho những hành động sai trái của mình. Tự lừa dối chính mình để những việc làm sai trái của mình không phải đến từ ý thức của mình mà đến trong vô thức mà thôi. Vô thức tức là một hành động không được suy nghĩ chắc chắn là làm việc đó có hại cho bản thân và cho người khác. Nên tôi lỗi gây ra trong hành động này là do thiếu ý thức nên ta mới làm như vậy mà thôi.
          Không có sự lừa dối nào khủng khiếp cho bằng tự mình lừa dối chính mình. Tự bản thân mình còn như vậy thì nói chi đến xã hội chung quanh. Có biết bao những tại hại gây ra cho môi trường xã hội. Để rồi một xã hội chìm ngập trong sự giả tạo mà chính con người tạo ra. Tự con người hủy diệt chính mình chứ không phải một ngoại tại nào gây nên. Cũng vậy, cái chết của Chúa Giesu không phải của những người biệt phái và phái pha ri sêu nhưng chính chúng ta làm nên cái chết của Ngài. Một cái chết chính người đồng loại giết người đồng loại của mình. Đó là một hành động nghê tởm nhất mà trong thâm tâm con người luôn chất chứa. Thế giới ngày nay cũng đang rơi vào tình trạng con người giết con người. Chỉ vì tính ích kỉ và luôn nghĩ tới bản thân mà làm hại biết bao người vô tội, những con người đang có cuộc sống bình yên.
          Theo con, tự lừa bản thân giống với sự lạc quan và quá tự tin, như những thành kiến khác, nó đều có lợi và hại. Về mặt tích cực, niềm tin không có bằng chứng về bản thân con người và giúp nâng cao hạnh phúc nói chung bằng cách giúp con người đương đầu với stress, nó có thể làm tăng sự kiên trì khi làm những việc khó hoặc tẻ nhạt, làm ta thử những kinh nghiệm mới. Con người khăng khăng lừa dối bản thân một phần để duy trì một hình ảnh về bản thân tích cực. Ta phớt lờ những thất bại của mình, nhấn mạnh những thành công (ngay cả khi chúng không hoàn toàn của ta) và thích đổ lỗi cho người khác và hoàn cảnh bên ngoài khi thất bại. Mặt tiêu cực, tự lừa bản thân có thể làm ta đau khổ rất nhiều khi sự thật cuối cùng được tiết lộ. Nhưng không còn cách nào khác lừa dối bản thân để được hạnh phúc được giờ nào hay giờ đó.
Lừa dối là một chủ đề mà nhiều người ngày nay quan tâm và tự đặt cho mình những suy nghĩ chín chắn để cho mình khỏi bị mắc lừa vì người khác. Thế giới ngày hôm nay sự thật không còn trên của miệng của từng người nữa. Sống với nhau nhưng luôn luôn cảnh giác vì sợ người khác không thật với mình. Một lời ta nói ra luôn để cho người khác suy nghĩ điều đó có thật hay chỉ là một trò đùa. Vì nghĩ rằng bản thân mình còn lừa dối chính mình thì làm sao mà có thế nói sự thật với người khác được.

At Công Chính

Chủ Nhật, 5 tháng 5, 2013

LÝ TRÍ TRONG SUY TƯ THẦN HỌC CỦA ST TOMA VÀ BONNAVENTURA

Trong suy tưởng của mỗi thần học gia, đều có những con đường khác nhau để tìm đến Thiên Chúa. Nhưng có chung một sự gặp gỡ là tìm mối tương giáo giữa con người và Thiên Chúa. Ở giữa hai lãnh vực con người và Thiên Chúa là một khoảng không bao la để cho các nhà thần học tìm kiếm và làm cho khoảng cách đó gần lại với nhau. Trong thụ tạo có Thiên Chúa và Thiên Chúa có trong thụ tạo. Cả hai kết hợp làm một với nhau trong cùng một dòng suy tưởng để mỗi người có những cách tìm đến Thiên Chúa cách nhanh nhất. Qua St Toma và Bonnaventura ta thấy được mỗi người có cách nhìn khác nhau khi sử dụng “lý trí” để nói về Thiên Chúa và giúp con người nhận ra cùng đích của mình. Trước khi đi vào chi tiết của những dòng suy tưởng của hai Thánh nhân, Ta cùng nhau tìm hiểu đôi chút về cuộc đời của hai Thánh nhân.
A/ Cuộc đời Thánh Toma
          Thánh Thomas Aquinas chào đời vào khoảng cuối năm 1224 đầu năm 1225, tại Roccasecca, gần Naples. Ông xuất thân trong một gia đình quyền quý. Cha ông làm thẩm phán ở Aquino. Thời thiếu thời, ông được giáo dục ở đan viện Monte Cassino. Từ năm 1239 đến năm 1243 ông tiếp tục học tại khoa nhân văn thuộc đại học Paris. Vào năm 1244 ông gia nhập Dòng Thánh Đa Minh, ngược với ý muốn của gia đình. Ông đã học ở Paris từ năm 1245, dưới sự hướng dẫn của Albert the Great tức là Anbeto Cả. Ông là học trò của Anbeto Cả tại đại học Cologne từ năm 1248-1252. Năm 1252 Toma lại đến Paris và bắt đầu một khóa học 4 năm về chú giải và giảng dậy các Luận Đề của Peter Lombard. Năm 1257 ông được công nhận là giáo sư đại học Paris và giảng dạy ở đó cho đến cuối niên khóa 1259. Sau đó, Ông trở về ý và giảng dậy ở Orivieto, Rome và Vierbo. Năm 1269 ông trở về Paris và giảng dạy ở đó trong tư cách là giáo sư đại học. Năm 1272 ông chuyển đến Naples để mở một học viện Đa Minh tại đại học Naples. Năm 1273 ông ngừng giảng dạy để viết lách. Vào tháng 2 / 1274 ông đi dự Công Đồng Chung Lyon. Tuy nhiên, tại đan viện Fossanuova, ngay phía bắc thành phố Naples, ông lâm bệnh ngặt nghèo và đã qua đời tại đó.
          Anbeto Cả thành Cologne, người đã dốc hết tâm huyết để dịch các tác phẩm của Aristote và truyền thống thần học Kito giáo. Những bài chú giải của ông về tác phẩm Aristote rất quan trọng, được viết bằng tiếng Latinh. Chỉ trình bày hiểu biết của mình về quan điểm của Aristote. Toma là học trò của Anbeto Cả nên ông đã truyền cảm hứng cho Toma trong sự hòa hợp truyền thống thần học Kito giáo theo quan điểm của Augustino và tư tưởng của Aristote. Chính vì vậy, trong Bộ Tổng Luận Thần Học của Toma có 39 đề mục tham chiếu của St Augustino và 35 đề mục tham chiếu Aristote.
B/ Cuộc đời Thánh Bonnaventura
          Chúng ta không biết nhiều về thời thơ ấu của thánh nhân. Ngài sinh tại Babnoregio, gần Orvieto, Italia. Có nhiều tranh cãi về cuộc đời của Ngài Nhưng phần lớn cho rằng Ngài chào đời khoảng năm 1217. Ngài bắt đầu theo học cứ nhân vưn chương tại đại học Paris vào khoảng năm 1235. Thánh nhân hoàn tất chương trình tú tài Kinh Thánh vào năm 1248 và dạy Kinh Thánh trong khoảng 2 năm đó. Trong khoảng năm 1250 – 1252, Thánh nhân cho ra đời tác phẩm Chú giải các luận đề của Peter Lombard. Sau đó ít lâu Ngài nhận bằng tiến sĩ thần học. Ngài làm giám đốc học vụ tại đại học Phan sinh ở Paris từ năm 1254-1257. Một điểm rất quan trọng lúc này Ngài là đồng nghiệp của Thánh Toma. Năm 1257 Ngài rời Paris cùng với chức cụ giáo đốc học vụ để phục vụ Hội Dòng trong tư cách là Tổng Phục Vụ thứ 7 của Anh Em Hèn Mọn. Sau những lần xung đột với anh em thì năm 1259 Ngài rút lên núi La Verna thanh vắng là nơi Phanxico đã được in Năm Dấu, để dắm mình sau trong thế giới thiêng liêng của Đấng Sáng Lập. Tháng 5 / 1273, Đức Giao Hoàng Gregory X chỉ định Ngài lên chức Hồng Y. Sau đó cùng với Đức Giao Hoàng đi tới Lyon để chuổn bị cho công đồng Lyon II sẽ được triệu tập vào tháng 5 / 1274. Chỉ 2 ngày trước khi Công Đồng bế mạc thì Ngài qua đời vào Chúa Nhật ngày 15 / 7 / 1274.
I/ Giống nhau:
          Cả hai đã từng là đồng nghiệp của nhau trong cương vị giám đốc học vụ. Cả hai đều có cái nhìn về triết học của Aristotle vào thần học một cách có phê phán. Cả hai đều nhận định không thể tách triết học và thần học cách riêng lẻ nhưng là sự bổ trợ cho nhau. Triết học kết nối với thần học và nhờ thần học mà triết học phát huy hết tiềm năng đích thực của mình. Cả hai đều có cái nhìn về giới hạn của lý trí trong nỗ lực tiến tới chân lý, bởi vì chân lý chỉ được tìm thấy trọn vẹn trong Thiên Chúa mà thôi. Cả hai đều mong muốn có sự hợp nhất giữa đức tin và lý trí. Mục đích của thần học là sự kết hợp giữa tri thức và người tri thức, giúp con người đi từ tiềm thể đến hiện thể của mình. Cả hai đều quan niệm chỉ có mạc khải nơi Thiên Chúa thì con người mới biết cách trọn vẹn nhất.
II/ Khác nhau:
1/ Vai trò của “lý trí” trong suy tư thần học của St Toma:  
St Toma đề cao vai trò của lý trí trong con người. St Toma đã sử dụng ngũ đạo để chứng minh có Thiên Chúa. Lý trí là khả năng Thiên Chúa ban cho con người để con người khám phá ra những chân lý thực tại nơi thụ tạo. Ngài cho rằng mọi nhận thức phải bắt đầu từ kinh nghiệm về đối tượng khả giác thay vì bằng các ý niệm bẩm sinh về sự hoàn hảo. Đặc tính chính của đối tượng khả giác là sự tồn tại của chúng, đòi hỏi phải có nguyên nhân của nó. Dưới ánh sáng tự nhiên của lý trí, trí khôn biết được khi kinh nghiệm các biến cố, hậu quả phải có nguyên nhân, vì không có gì đến từ hư vô. Đối với Ngài “lý trí” không giúp đức tin nhận ra cùng đích của con người nhưng “lý trí” giúp cho đức tin có sự hiểu biết rồi mới tin. Theo Ngài “lý trí” hướng về Thiên Chúa là cùng đích của sự việc. Lý trí đóng vai trò là tiền sảnh, là nền tảng cho một vấn đề nào đó khi nó xuất hiện. Khi một sự vật hiện hữu thì lý trí không chỉ tin một cách mờ quáng, nhưng lý trí tìm về cùng đích của mình là cái gì đã làm nên sự vật này và làm cho nó hiện hữu. Ngoài lý trí ra không có điều gì nhận biết Thiên Chúa hiện hữu. Lý trí là nền tảng của đức tin, nền tảng của thần học. Mục đích của St Toma là giúp con người hiểu về Thiên Chúa là Đấng như thế nào rồi mới dẫn đến một niềm tin sắc đáng chứ không tin một cách mu mơ. Theo quan niệm của St Toma Triết học và thần học không có sự đối chọi nhau, kình địch nhau nhưng triết học và thần học có sự bổ trợ cho nhau và giúp nhau khám phá ra cùng đích niềm tin của mình. Ngài cho rằng: Nữ tỳ là triết học và Bà Hoàng là thần học.
2/ Vai trò của “lý trí” trong suy tư thần học của St Bonnaventura:
Bonnaventura ảnh hưởng bởi ba nguồn tư tưởng là Augustino, Dionysivs và Phanxico. Nên phần nào cũng chịu ảnh hưởng tới tư tưởng của St Bonnaventura. Cũng như St Augustino là tin để hiểu thì St Bonnaventura cũng bắt đầu bằng đức tin, xác tín rằng Đức Kito, Ngôi Lời Hằng Sống của Thiên Chúa là mặc khải trọn vẹn nhất mà Thiên Chúa ban cho thế giới, vì thế con người chỉ có thể tìm thấy chân lý nơi Đức Kito. Từ chân lý này Ngài đã tự tuyên bố là đã khám phá ra chân lý. St Bonnaventura tin rằng tư duy con người dứt khoát phải hưởng đến sự hiểu biết của Thiên Chúa. Chính vì thế Ngài nói rằng: Sự hiểu biết Thiên Chúa trước tiên không phải là nhận thức về Thiên Chúa mà là yêu mến Thiên Chúa. Người ta có được tri thức tối thượng là nhờ ơn soi sáng chứ không phải nhờ suy luận của con người. Khái niệm Mô mẫu Thụ tạo là hình ảnh hay là sự thông dự vào Mô mẫu lý tưởng Thần Linh. Thế giới là một phản ảnh mang tính biểu tượng của thế giới Thần Linh. Qua đó, ta thấy rằng St Bonnaventura có một quan điểm coi trọng “ái cảm” hơn là “tri thức”. Ngài cho rằng: Một khi lý trí nhận ra Thiên Chúa là mục đích tối hậu của nó thì lý trí chỉ muốn kết hợp với Thiên Chúa. Cuối cùng Ngài đưa ra một khái niệm tri thức về Thiên Chúa là: Khi ý chí thức giấc thì tất cả phải lặng yên (Hexaemeron 2.30). Tư tưởng của St Bonnaventura chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi Đấng sáng lập của Hội Dòng Phanxico Assisi. Thánh nhân không chỉ là trung tâm nhưng còn là mặt trời và là sứ vụ của Bonnaventura. Chính vì vậy trong các tác phẩm của Ngài đều nhấn mạnh đến sự suy niệm và việc chiêm ngường này tập trung vào ba lĩnh vực chính yếu: Suy niệm về thế giới tự nhiên, về bản thân con người và bản tính Thiên Chúa.
Kết luận:
Qua những điểm giống và khác nhau nói trên, cho ta nhận thấy cả hai Ngài đã sử dụng những con đường khác nhau để tìm đến Thiên Chúa. Một bên là tin để hiểu còn một bên hiểu để tin. Nhưng cả hai đều không có sự mâu thuẫn, chống đối nhau. Qua đó, niềm tin của ta được củng cố và giúp ta sáng tỏ hơn về Đấng mà ta đang tin thờ. Niềm tin của chúng ta không phải la một sự mê tín nhưng niềm tin của chúng ta phát xuất từ con tim, lòng mến, lý trí hay nói cách khác niềm tin của chúng ta là tất cả con người của chúng ta làm nên một đức tin. Cả con người của ta chính là con người của Chúa. Chính Chúa đang hoạt động và gìn giữ ta trong mọi nơi mọi lúc.   

Ant Công Chính

Thứ Hai, 18 tháng 3, 2013

CON NGƯỜI SA NGÃ VÀ ƠN CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA


Trình thuật (St, 3) là điểm nhấn rất lớn trong toàn bộ trình thuật Kinh Thánh. Như là cán cân để cân giữa điều thiện và điều ác. Nếu xét cán cân về mặt chữ nghĩa thì cán cân này bị lệch rất lớn và dường như chỉ có điều ác nổi bật. Còn nếu xét về mặt ý nghĩa thì cán cân đó song hành với nhau, hay nói cách khác nhờ đó mà ơn cứu độ của Thiên Chúa tuồn tràn trên con người. Sự xuất hiện của A-đam trong chương 2 sách Sáng thế, cho ta thấy có hai câu chuyện về nguồn gốc con người: “Thiên Chúa lấy bùn từ đất nặn ra con người”(St 2,7). Thiên Chúa lấy nguyên liệu mà Người đã làm nên trước khi nặn ra con người. Các thụ tạo khác thì được tạo dựng cách trực tiếp. Điều đó nói lên, con người chỉ là một phần trong thế giới thụ tạo. Một cách nào đó cũng cho ta thấy, con người lệ thuộc vào thế giới thụ tạo vì: từ đất mà có, mặt khác con người cũng thấy độc lập với thế giới thụ tạo. Cái sau cùng lại trở nên cái cao quý nhất, Thiên Chúa đặt con người làm chủ công trình sáng tạo, trong sự phụ thuộc vào Thiên Chúa. Ngài nói: “Trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa bảo: Các ngươi không được ăn, cũng không được đụng tới, kẻo phải chết.” (St 3, 2-3). Nhưng con người đã mắc lừa khi nghe những lời sủi giục của con rắn và con người tự cho mình có quyền trên Đầng Sáng Tạo, để rồi hái trái cây ấy mà ăn. Từ đây, con người đã đánh vỡ sự thánh thiện ban đầu, đánh mất sự hòa hợp giữa con người với muôn vật. Từ đó, tội lỗi xâm nhập vào con người ngày một mãnh liệt như tiền tài, địa vị, dục vọng. Nhưng không vì thế mà Thiên Chúa bỏ rơi con người, kệ cho thú giữ hành hạ, nhưng Người vẫn yêu thương con người, đưa con người trở về với tình yêu ban đầu. Yêu đến nỗi Người đã ban chính con một yêu dấu để cứu độ chúng ta và Người đã biểu lộ tình yêu bằng cái chết trên cây Thập Gía “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hi sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Trong 11 chương đầu của sách Sáng thế, cho ta thấy nhiều sự kiện quan trọng diễn ra trong chương này. Qua đọc và tìm hiểu 11 chương đầu của sách Sáng thế, tôi nhận thấy có 2 mục trọng yếu đó là:
1/ Từ (St,1-2) nói lên tình yêu nhưng không của Thiên Chúa dành cho nhân loại. Mọi việc Thiên Chúa khởi sự thật tốt đẹp, thánh thiện, nhân loại được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa như Cha ở trong con và con ở trong Cha.
2/ Từ (St,3-11) nói lên sự sa ngã của con người, dẫn đến nhiều mối tai họa giáng xuống trên con người. Sự tội đã làm cho khoảng cách giữa con người với Thiên Chúa không còn được gặp nhau trực tiếp như trước nữa, mà là một sự gián tiếp qua các tạo vật. Mấu chốt khởi đầu cho sự sa ngã nằm toàn bộ trong (St, 3) là khoảng cách giữa thiện và ác. (St, 3) mô tả việc tội lỗi xâm nhập vào con người và các thảm họa gây ra cho muôn loại trong vũ trụ.
          Con người rơi vào sự sa ngã bắt đầu “Trong vườn Ê- đen lại xuất hiện con vật mới lạ đó là con rắn, cũng là một thụ tạo được Thiên Chúa dựng nên, nhưng con vật này không những có trí khôn, hiểu biết điều Thiên Chúa truyền mà còn xảo quyệt nữa. Nó lý luận và đối đáp rất sát với tâm lý con người để lừa đảo người đàn bà bằng cách bôi nhọ Thiên Chúa” [1]. Chính con vật này đã làm cho khoảng cách giữa Thiên Chúa và con người không còn trực tiếp gặp nhau trong sự thánh thiện ban đầu. Từ đây, tội lỗi đã xâm nhập vào nhân loại cách trắng trợn và để lại hậu quả muôn đời cho con cháu.
          Trong quá trình gieo rắc sự tội, con rắn đã đùng phương pháp tiệm tiến dần dần để con người dẽ dàng phạm tội. Khởi đầu con rắn xuất hiện. Nó rất khôn ngoan khi chọn đối tượng là người phụ nữ, vì phái yếu có tâm tính nhạy cảm hơn nên sự thành công của nó sẽ chắc chắn hơn. Nó bắt đầu câu chuyện không bằng một sự súi giục ăn trái cây đó đi bà, nhưng nó bắt đầu gieo trong đầu người phụ nữ những câu hỏi nghi vấn “có thật Thiên Chúa bảo: “Các ngươi không được ăn mọi trái cây trong vườn không ?”” (St 3,1). Dường như nó đảo ngược toàn bộ lời của Thiên Chúa nói với con người là “hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn” (St 2, 16). Khi nghe thấy lời của con rắn nói sai về điều của Thiên Chúa nên E-và đã phản ứng ngay tức khắc, bà đã phản ứng lại lời nói của nó. Vì sự phản ứng tự nhiên nên dường như câu nói ban đầu của Thiên Chúa được đưa lên một đỉnh cao là “trái các cây trong vườn, thì chúng tôi được ăn. Còn trái cây ở giữa vườn, thì Thiên Chúa bảo: Các ngươi không được ăn, cũng không được đụng tới, kẻo phải chết.” (St 3, 2-3). Qua đó, ta thấy được E-và đã ý thức rõ đến thế nào về tính nghiêm trọng của điều Thiên Chúa cấm kỵ. Khi nghe E-và trả lời, con rắn đã biết được điểm yếu của người phụ nữ là sợ chết. Thói xảo quyệt của nó tránh không thúc giục E-và ăn trái cây đó. Nhưng nó chỉ quả quyết với E-và là “chẳng chết chóc gì đâu” (St 3, 4). Nó đã gieo vào trong suy nghĩ của người đàn bà không có một hình phạt nào như thế. “Lời răn đe lành mạnh của Thiên Chúa, nó biến thành một lời nói dối, đồng thời ngụ ý rằng: Thiên Chúa muốn độc chiếm sự hiểu biết chứ chẳng yêu thương gì con người. Nó tìm cách gợi lên trong người phụ nữ tham vọng biết, nhưng trước tiên phải gieo vào lòng bà sự ngờ vực về sự chân thật và lòng nhân hậu của Thiên Chúa, đồng thời gây tin tưởng manh mẽ vào sự hiểu biết của chính nó. Một khi con người hoài nghi về ý định yêu thường của Thiên Chúa, thì chuyện gì cũng có thể xẩy ra.” [2]. Sự tinh vi của con rắn đã làm cho E-và dường như chiều theo những lời của nó và trong ánh mắt của bà luôn nhìn vào trái cây đó. Từ ánh mắt đó đã toát lên một sự thèm muốn, thèm muốn được tinh khôn, sự hiểu biết xâu xa, cái thèm muốn hơn cả là muốn bằng Thiên Chúa và Thiên Chúa không có quyền thống trị mình, “Người đàn bà thấy rằng cây đó ăn thì ngon, trông thật sướng mắt, và cây đó đáng thèm vì làm cho mình được tinh khôn” ( St 3, 6). Từ ánh mắt và sự khoái cảm đó đã dần dần đi vào trong ý thức rồi mới xâm nhập ý muốn và đi đến hành động đưa tay bứt trái cây đó, một hành động hoàn toàn tỉnh táo và tự do “Bà liền hái trái cây đó mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình và ông cũng ăn.” ( St 3, 6).
          Qua đó, cho ta thấy con rắn đã cám dỗ con người phạm tội theo chiều hướng đi lên, bắt đầu từ cái nhỏ nhất. Đó chính là gieo vào suy nghĩ của E-và sự nghi vấn, rồi đến sự quả quyết của nó. Từ đó, đưa E-và đến ánh mắt của vinh hoa, sự khôn ngoan, sự thống trị, dần dần ngấm sâu vào trong ý thức, ý muốn rồi đến hành động đưa tay hái trái cây đó mà ăn, rồi đưa cho cả chồng ở đó cùng ăn.
          Nguyên nhân con người sa ngã trước sự dụ dỗ ngon ngọt của con rắn là do lòng tin của E-và quá yếu kém. Chính vì thế, khi trò chuyện với con rắn, E-và đã đâm ra nghi ngờ Thiên Chúa. Bà đã tin lời con rắn hơn tin lời Thiên Chúa và E-và đã hành động theo niềm tin đó. Chắc có lẽ, nhiều người hỏi tại sao khi E-và đối thoại với con rắn và nhất là khi bà đưa trái cây đó cho ông ăn, mà A-đam không có một sự phản ứng nào, cái hậu quả sau khi ông bà ăn Thiên Chúa đã báo trước cho ông ?. Nguyên nhân vì trong ý nghĩ, con người muốn chiếm đoạt quyền của Thiên Chúa, không muốn để cho Thiên Chúa thống trị mình, mình phải ngang bằng với Thiên Chúa, cũng được tinh khôn giống như Người, nên họ đã dùng cách thức này để mong đạt được điều đó, bất kì lệnh của Thiên Chúa đã cấm mà con người biết rõ.
          Sau khi con người ăn xong và mắt hai ông bà mở ra. Có lẽ, hai ông bà rất thất vọng, vì không được tinh khôn, không trở nên như những vị thần biết điều thiện điều ác mà chỉ thấy mình trần truồng. Như có lời nói “Phản bội Thiên Chúa, lương tâm con người bị lột trần trước mặt người” [3]. Từ đó, tính dục nổi loạn, con người tự hổ thẹn với chính mình và với tha nhân “mắt hai ông bà mở ra và họ biết mình trần truồng; họ mới kết lá vả làm khố cho mình” (St 3, 7). Những gì cao quý, tốt đẹp trước đó, giờ đây không còn nữa, mất tình thân hữu với Đấng Tạo Hóa. Con người không nói lời yêu thương, che trở cho nhau như trước “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi. Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì Nàng được rút từ đàn ông ra.” (St 2, 23). Sau khi phạm tội lời này trở thành “Người đàn bà Ngài cho ở với con, chính nàng đã cho con cây ấy, nên con ăn.” (St 3, 12). Chính vì thế đã làm cho tội lỗi, sự đổ lỗi cho nhau, sự giận hờn, ghen ghét đã xâm nhập vào con người, phá vỡ sự tốt đẹp ban đầu là những lời yêu thương.
          Cha ông ta thường nói “thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Đó là lời dậy của người xưa khi con cái hư hỏng, không vâng lời cha mẹ, làm điều xấu. Cũng có câu “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà ”. Chính những lời bênh vực con cái khi con cái làm sai đã làm cho cuộc đời của đứa trẻ đó dần dà đi sai đường lạc lỗi, khi lớn lên đứa con đó luôn đi theo ý riêng của mình để rồi những lời cha mẹ dậy bảo nó không còn nghe và hầu như nó bỏ ngoài tai tất cả. Có rất nhiều những lời khuyên dậy cha mẹ không nên làm con cái hứ hỏng. Có lẽ chính hình ảnh Thiên Chúa trừng phạt con người khi con người phạm tội đã để lại những lời khuyên dậy để cha mẹ làm tròn bổn phận là người cha, người mẹ luôn biết dậy con cái. Thiên Chúa không ghét bỏ con người sau khi con người phạm tội. Nhưng Ngài muốn chỉ dậy con người khi con người phạm tội. Những hình phạt đó là do chính con người tự chuốc vào thân mình. Khi Thiên Chúa hỏi con người “ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng ?” (St 3, 11). A-đam tự nhận không xứng đáng xuất hiện trước tôn nhan Chúa như trước nữa. Tuy nhiên, ông chỉ dựa vào sự bất xứng của mình để chữa tội, chứ không tự thú tội, cũng chẳng xin được thứ tha.[4]  Khi bị chất vấn thì con người đổ lỗi cho nhau không nhận trách nhiệm về mình. A-đam đổ lỗi cho Chúa khi Người cho người phụ nữ ở với ông, chính nàng đã cho con trái đó. E-và đổ lỗi cho con rắn. Không ai nhận trách nhiệm, lỗi lầm về mình và xin Người ơn tha thứ. Sở dĩ con người ra như thế vì sự tốt đẹp ban đầu không con nữa mà lúc này chỉ toàn là những sự dữ, khiến con người ra u tối, không còn nhận ra chính mình nữa. Sự trừng phạt của Thiên Chúa đi từ dưới lên, bắt đầu từ con rắn, người phụ nữ, ông A-đam, đất đai sẽ nguyền rủa con người, đuổi ra khỏi vườn Ê-đen và cuối cùng là sự phân cách giữa con người với Thiên Chúa bằng các Kê-ru-bim và gươm lửa sáng lóe.
          Thiên Chúa trừng phạt con rắn là loài đáng bị nguyền rủa nhất trong tất cả mọi súc vật và mọi dã thú, phải ăn bùn đất mọi ngày trong đời. Qua đây, Thiên Chúa cũng hứa ban ơn cứu độ xuống cho con người, khi Ngài nói “Ta sẽ đặt mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng dõi mi và dòng dõi người ấy; dòng giống đó sẽ đáng vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó” (St 3,15). Câu nói này loan báo một mối thù truyền kiếp và một cuộc chiến một mất một còn, giữa hai bên con rắn và người phụ nữ, thế nhưng sẽ không phải là cuộc chiến trường kì, bất phân thắng bại, mà nó sẽ kết thúc có lợi cho con người. Ma quỷ sẽ bị đánh bại bởi chính dòng dõi người phụ nữ và như thế nhân loại sẽ được phục hồi trước Thiên Chúa. Qua đó, cũng ngụ ý rằng chính con một Người xuống ngự vào trong cung lòng người phụ nữ và người này sẽ đem lại chiến thắng ấy cho con người. Điều này được sáng tỏ hơn khi Thiên Chúa trừng phạt người phụ nữ.
          Khi Thiên Chúa trừng phạt con người, Người không nguyền rủa cách trực tiếp mà Người chỉ có khiển trách và ra hình phạt. Thiên Chúa phạt người phụ nữ “Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén; ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ muốn chồng ngươi; còn nó, nó sẽ thống trị ngươi” (St 3, 16). Qua đó, cho ta thấy Thiên Chúa trừng phạt người phụ nữ trong vai trò làm mẹ và làm vợ. Bà sẽ phải đau đớn trong lúc mang thai và khi sinh đẻ. Thiên Chúa dùng hình ảnh lúc lâm bồn để nói lên sự đau khổ nhất của người phụ nữ.
          Đối với A- đam, Người cũng trừng phạt bởi một hình ảnh người lao động, phải lao động  cực nhọc thì mới có bánh ăn, khi người nói “đất đai bị nguyền rủa vì ngươi; ngươi sẽ phải cực nhọc mới kiếm được miếng ăn từ đất, mọi ngày trong đời ngươi. Đất đai sẽ trổ sinh cho ngươi gai góc và cây có gai, ngươi sẽ ăn ở ngoài đồng. Mặt có đẫm mồ hôi mới có bánh ăn, cho đến khi ngươi trở về với đất, vì từ đó ngươi đã được lấy ra. Qủa thật, ngươi là bụi đất, và ngươi sẽ trở về với bụi đất” (St 3, 17-19). Từ đây, A-đam “nhận thấy” sự khó nhọc của lao động. Không phải bản chất của lao động thay đổi, nhưng là cái nhìn của A-đam về lao động thay đổi. Con người phải lao động cực nhọc để nuôi sống bản thân và người khác, đất đai cũng nguyền rủa con người vì tội lỗi của con người, khiến cho con người phải cực nhọc thì đất đai mới sinh hoa quả để con người được sống trên mặt đất. Cái làm cho con người đau khổ nhất là cái chết nơi con người, từ cái chết này con người sẽ trở về với nguyên thủy ban đầu của mình là được sinh ra từ bụi đất. Trong mỗi người, chắc ai cũng sẽ rất nhớ lời bài hát “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, rồi mai ngày sẽ trở về bụi tro”. Chính tội lội đã mang lại cho con người những đau khổ và đau khổ lớn nhất nơi con người đó là cái chết, nhưng đó là cái chết để ta được trở về với Thiên Chúa là nguồn mạch của sự sống. Con người không thể nhìn thấy Thiên Chúa mà không phải chết nếu như con người không phải là con của Thiên Chúa.[5]
          Thiên Chúa không thể để cho hai ông bà tiếp tục hưởng những hồng ân như trước nữa. Sau khi trừng phạt, Thiên Chúa đã đuổi ông bà ra khỏi vườn Ê-đen “Nay con người đã trở thành như một trong chúng ta, để biết được điều thiện và điều ác. Bây giờ, đừng để nó giơ tay hái cả cây trường sinh mà ăn và được sống mãi” (St 3, 22). Câu nói này ngụ ý sâu xa rằng: con người vĩnh viễn mất ơn bất tử Thiên Chúa đã ban. Từ một nơi tốt đẹp và thánh thiện giờ đây không còn nữa, khoảng cách ấy dường như xa thật xa và sẽ không bao giờ đến được nơi đó nữa, khoảng cách ấy ngăn cách bởi những “Kê- Ru- bim và gươm lửa sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trường sinh” (St 3, 24). Ngài vẫn yêu con người, chỉ có Thiên Chúa mới có thể khôi phục lại địa vị cho con người bằng cách đem lại cho con người căn tính thánh thiện ban đầu. Qua đó, nói lên Ơn Cứu Độ chỉ có thể bắt nguồn từ Thiên Chúa, Đấng sẽ ban chính con một yêu dấu của Người đến với nhân loại. “Ai không ăn thịt và không uống máu của Ta thì không có sự sống đời đời” (Ga 6, 53). Như vậy, trong Thiên Chúa con người cần phải tìm lại căn tính của mình đã tự đánh mất bởi vì tội nguyên tổ.
          Qua trình thuật ( St, 3) tôi nhận thấy, chính những ước vọng hão huyền đã làm cho con người đến những cùng cực nhất của xã hội. Nó làm cho con người ra ô uế, làm cho khoảng cách giữa con người và Thiên Chúa mỗi ngày một xa dần. Chính những mơ tưởng đã làm cho con người đâm ra hận thù, ghen gét lẫn nhau và không tin tưởng nhau. Xã hội ngày hôm nay dường như đã mất ý thức hệ về tội, làm cho con người càng ngày càng đi sâu vào con đường tội lỗi. Coi mạng sống không là gì cả, như là một thứ đồ vật không thích thì bỏ đi. Một xã hội coi Thần Thánh như không có, từ đó coi việc tình đục như là một trò chơi nhằm thỏa mãn những khoải cảm con người, coi việc phá thai là chuyện bình thường, không nuôi được thì phá để lấy lại sự tính tiết cho chính mình, không nghĩ đến đứa con nó đang còn rất muốn sống và muốn được nhìn thấy mặt người mẹ.  Nhưng chính người mẹ lại can tâm giết đứa con của mình ngay khi nó chưa có tiếng nói là “mẹ ơi con muốn được sống”. Ma quỷ vẫn cám dỗ ta như cám dỗ ông bà xưa, chính những lúc ta chiều theo những suy nghĩ gây ra những dịp tội là những lúc ta đang nói chuyện với ma quỷ. Ma quỷ không hiện ra để cám dỗ ta cách trực tiếp những nó dung chính những cái trong con người ta để làm ta trở nên sấu xa, nếu ta không tỉnh thức thì cũng dễ rơi vào tình trạng nói chuyện với mà quỷ rồi dần dần nó chiếm đoạt những suy nghĩ của ta và ta đâm ra nghi ngờ về Đấng ta hằng tin tưởng, để rồi làm theo những chỉ dẫn trong suy nghĩ của ta mà chính ma quỷ đang sủi giục ta làm.
                                                                                  Anton  Công Chính

[1] Lm Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao, Tìm Hiểu Ngũ Thư, Tài liệu dậy học, Tr 72.
[2] Lm Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao, Tìm Hiểu Ngũ Thư, Tài liệu dậy học, Tr 73.
[3] Lm Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao, Tìm Hiểu Ngũ Thư, Tài liệu dậy học, Tr 74.
[4]Lm Inhaxio Nguyễn Ngọc Rao, Tìm Hiểu Ngũ Thư, Tài liệu dậy học, Tr 76.
[5] 100 Nhân Vật Tiêu Biểu Kinh Thánh. Người dịch: Maria Phạm Bích Giang, O.A và Lm. Phêrô Trần Văn Huyền, A.A.