Thứ Hai, 20 tháng 5, 2013

NÉT ĐẸP ĐỜI LINH MỤC


Cuộc sống quanh ta với biết bao là nét đẹp. Nét đẹp của hoa cỏ đồng nội. Nét đẹp của trăng sao, cá nước chim trời. Nét đẹp của những cánh đồng mênh mông bát ngát, hay nét đẹp của những dòng sông hiền hòa, trĩu nặng phù sa. Nét đẹp của thiên nhiên và nét đẹp của con người. Đó là nét đẹp của trí tuệ, nét đẹp về hình thể, nét đẹp của lòng nhân ái bao dung, nét đẹp trong những lời thơ, tiếng hát v.v… Thế nên, một nhạc sĩ đã từng viết: “Cuộc đời quanh ta có biết bao là nét đẹp.” Vậy những nét đẹp của đời linh mục là gì? Tại sao đời linh mục lại có những nét đẹp như thế?
Trong một bài viết đã lâu, linh mục Anthony Đào Quang Chính, OP, có đề cập đến 6 niềm vui sướng và 5 niềm khổ đau trong đời linh mục: “Cái sướng thứ nhất là được gọi bằng “cha”; thứ hai là được bài hát nào đó ca tụng rằng: Chúa chọn con lên hàng khanh tướng; thứ ba là nghe tội người khác; thứ tư là ngồi chỗ kính trọng; thứ năm là không bị lo lay-off, nghĩa là thất nghiệp; và thứ sáu là cha nói một tiếng bằng chúng con nói mười tiếng.” Suy cho cùng, những niềm vui sướng ấy chỉ dừng lại ở khía cạnh hình thức bên ngoài mà thôi. Những niềm vui sướng ấy không nói lên những nét đẹp nơi căn tính và sứ vụ của người linh mục. Căn tính sâu xa của đời linh mục đó chính là nét đẹp của tâm linh, nét đẹp của sẻ chia, nét đẹp của tha thứ, và nét đẹp của hy sinh.
1/ Nét đẹp của tâm linh
Linh mục là con người của cầu nguyện, là thầy dạy về cầu nguyện. Là con người của cầu nguyện, linh mục nguyện gẫm, suy niệm Lời Chúa, giảng dạy Lời Chúa, viếng Chúa, Chầu Thánh Thể và dâng Thánh lễ mỗi ngày. Đó là những nét đẹp tâm linh trong đời linh mục.
Mỗi lần nguyện gẫm, linh mục có thời gian nhìn lại chính mình, nhìn lại mối tương quan giữa mình với Thiên Chúa, hay mối tương quan giữa mình với giáo dân. Mỗi lần suy niệm hay giảng dạy Lời Chúa, linh mục phải là người để Lời Chúa soi sáng, dẫn đường để rao giảng những lời của an ủi yêu thương, những lời của sự thật và sự sống. Mỗi lần viếng Chúa, chầu Thánh Thể, linh mục quỳ gối thinh lặng, cầu nguyện và chiêm ngắm Thánh Thể là bí tích của tình yêu, một tình yêu cao trọng, một tình yêu đến cùng mà Chúa Giêsu, vị linh mục thượng phẩm đời đời đã dành cho nhân loại. Mỗi lần dâng Thánh lễ là mỗi lần linh mục hiệp cùng hy tế của Chúa Giêsu trên thập giá, để dâng cả những suy nghĩ, dự định, ước muốn; dâng cả những lỗi lầm, bất xứng trong đời linh mục lên cho Thiên Chúa Cha, để cầu nguyện cho bản thân, nhất là cầu nguyện cho những đau khổ của đoàn chiên mà Chúa trao phó.
2/ Nét đẹp của sẻ chia
Nhiều bổn đạo đau khổ, tuyệt vọng bởi những biến cố đau thương giữa đời thường. Họ tìm đến nhờ linh mục cho những lời khuyên, giúp lời cầu nguyện để vượt qua những khó khăn và thử thách. Đau khổ về tinh thần lẫn vật chất. Nhiều bà con vướng vào cảnh nợ nần, hoặc quá nghèo tìm đến với linh mục, nói thật những đau khổ ấy với linh mục, họ hy vọng được ngài sẻ chia. Có cha mẹ nào lại không thương những đứa con đang hoạn nạn, nghèo túng của mình. Vì vậy, người linh mục luôn đồng cảm với những nỗi thống khổ của nhiều bổn đạo trong giáo xứ mà ngài coi sóc. Cha giúp lời cầu nguyện. Cha thăm viếng động viên. Thậm chí cha giúp một chút tiền để họ vượt qua khủng hoảng và bế tắc. Vì vậy, linh mục là người “bị ăn”, là tấm bánh được bẻ ra để phân phát cho những ai đang đói khát.
Nhiều linh mục tổ chức mời đoàn bác sĩ ở thành phố về nhiều giáo xứ tỉnh lẻ ở thôn quê để khám bệnh, phát thuốc miễn phí cho bà con giáo dân. Nhiều linh mục tổ chức những đợt phát quà cho bà con giáo dân nghèo mỗi dịp Giáng sinh hay Tết đến. Nhiều linh mục tổ chức những đợt phát học bổng cho các em thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn nhưng chăm chỉ học hành. Gia đình nào có tang chế, linh mục đến hiệp dâng Thánh lễ, cầu nguyện và chia sẻ sự mất mát lớn lao. Đó là những nét đẹp của sẻ chia và yêu thương trong đời linh mục.
3/ Nét đẹp của tha thứ
Theo gương Chúa Giêsu, người linh mục là con người của tha thứ. Ngài tha thứ cho những bổn đạo nói xấu, chỉ trích, lên án mình. Ngài tha thứ cho nhiều hối nhân nơi tòa giải tội. Ngài tha thứ cho những lầm lỗi, thiếu sót cho bà con đang làm việc trong các hội đoàn. Đó là nét đẹp của lòng bao dung. Vì yêu thương con cái nên cha mẹ sẵn sàng tha thứ, không chấp nhất những lỗi lầm, khuyết điểm của con. Vì yêu thương đoàn chiên nên người linh mục luôn đón nhận tất cả vào vòng tay nhân ái của người mục tử nhân lành.
Vì vậy, nơi nét đẹp của tha thứ, mỗi Kitô hữu chúng ta còn khám phá ra nơi khuôn mặt của mỗi linh mục sự hiền lành và phúc hậu. Nét đẹp ấy đã giúp nhiều hối nhân lấy lại niềm tin yêu và cậy trông vào Thiên Chúa. Cả thế giới vô cùng cảm kích trước nghĩa cử Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã tới một nhà tù, thăm hỏi và tha thứ cho người thanh niên bắn những phát súng để ám sát ngài. Phải chăng đó là nghĩa cử xuất phát từ những gì Chúa Giêsu đã dạy và đã sống?
4/ Nét đẹp của hy sinh
Làm linh mục đòi hỏi phải có sự hy sinh. Hy sinh thời gian, sức khỏe; hy sinh những phút thư giãn của bản thân để phục vụ nhu cầu tâm linh của nhiều bà con bổn đạo; hy sinh sống đời độc thân không có vợ con để dành trọn thời gian và công việc cho việc phục vụ Giáo hội và mọi người. Bởi vậy, nét đẹp của hy sinh được kết nên bởi những từ bỏ trong đời linh mục. Người linh mục đúng nghĩa phải là một con người của sự từ bỏ của cải vật chất, từ bỏ những quyến luyến của tình cảm, của đam mê xác thịt, hay từ bỏ những cám dỗ quyền lực, danh vọng để sống đơn sơ, thanh thoát và dấn thân cho sứ vụ mục tử.
Tình yêu đòi hỏi phải có hy sinh. Hy sinh càng nhiều tình yêu càng có ý nghĩa và đúng nghĩa. Tuy nhiên, ngày nay, tâm lý tự nhiên ai cũng sợ hy sinh và từ bỏ. Người linh mục sợ hy sinh vì thấy lòng mình chưa thật sự từ bỏ dứt khoát những lôi cuốn của sự đời. Người linh mục sợ cô đơn vì động lực dấn thân vì lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội chưa thật sự mạnh mẽ. Vì vậy, tận trong sâu thẳm cõi lòng, nhiều linh mục vẫn chân nhận rằng mình cảm thấy cô đơn và đấu tranh với những phân mảnh trái ngược nhau diễn ra trong tâm hồn như trong “Lời Kinh Chiều Chúa nhật”, Linh mục Michel Quoit đã viết:
“Lạy Chúa, chiều nay chiều Chúa nhật, một mình con quỳ đây đối diện với ngọn đèn chầu, đối diện với Thánh Thể Chúa. Giờ này, nhiều gia đình đang sum họp ăn uống, cười nói vui vẻ bên nhau, còn con thì lặng lẽ âm thầm cầu nguyện với Chúa. Con bắt tay nhiều người nhưng không giữ lại một bàn tay nào cho riêng mình. Con tiếp xúc với nhiều trẻ con, nâng niu và vui đùa với chúng. Nhưng lạy Chúa, đó là những đứa trẻ của người khác chứ không phải là của con. Con giơ tay ban phép lành xá tội cho nhiều người, nhưng những tội đời của con thì chỉ có Chúa mới hiểu mà thôi… Lạy Chúa, làm linh mục có những phút giây cô đơn rất thật như thế, nhưng con tin rằng những phút giây ấy là cơ hội để con trắc nghiệm lại động lực ơn gọi dấn thân trong sứ vụ đời mình.”
Tóm lại: trong cuộc đời này cái gì cũng đều có hai mặt. Đời linh mục cũng vậy. Nhiều bậc cha mẹ muốn con đi tu làm linh mục cho sướng cái thân, ra đời lăn lộn kiếm tiền, vất vả khổ cực lắm! Nhưng họ đâu biết rằng, đằng sau những hào nhoáng, sung sướng bên ngoài ấy, người linh mục hằng ngày phải chiến đấu với bản thân, chiến đấu trong lời kinh, nguyện cầu. Làm linh mục có nhiều cái sướng nhưng khổ đau cũng không phải là ít, thậm chí khổ nhiều hơn sướng. Thế nhưng, nhờ những nét đẹp tâm linh, nét đẹp của sẻ chia, nét đẹp của tha thứ, hy sinh mà người linh mục có thêm động lực tình yêu để sống trọn vẹn trong ơn gọi. Những nét đẹp đời linh mục cho thấy Tin Mừng của Chúa Giêsu là Tin Mừng của niềm vui, của niềm tin yêu và hy vọng cho thế giới hôm nay.
            
   Tâm Thương (WGPSG)

NIÊN GIÁM TÒA THÁNH 2013


          Sáng thứ Hai 13 tháng 5, Đức Hồng Y Tarcisio Bertone Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và Đức Tổng Giám Mục Angelo Becciu, Phụ Tá Quốc Vụ Khanh đã trình lên Đức Thánh Cha Phanxicô Niên Giám Tòa Thánh 2013 và Thống Kê Giáo Hội Thường Niên (Annuarium Statisticum Ecclesiae) năm 2011. 
      Cả hai cuốn đều đã được soạn thảo bởi Đức Ông Vittorio Formenti, phụ trách Văn phòng thống kê Trung ương của Giáo Hội, Giáo sư Enrico Nenna và cộng tác viên khác. Đức Thánh Cha đã bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với những đóng góp của các vị biên soạn.
              Thống kê của Tòa Thánh cho thấy số người Công Giáo trên toàn cầu nhìn chung vẫn ở mức 1.214 tỷ, tăng chỉ cao hơn một chút so với tốc độ tăng trưởng dân số toàn cầu trong giai đoạn 2010/2011.
         Số linh mục dòng và triều đã gia tăng, chủ yếu là do sự gia tăng ơn gọi ở châu Á và châu Phi đã giúp cân bằng xu hướng tiếp tục suy giảm ở châu Âu (-9% trong thập kỷ qua).

       Tuy nhiên, tình trạng không được lạc quan mấy đối với số lượng nữ tu đã giảm đến 10% trong thập kỷ qua. 
Số liệu thống kê đáng ngạc nhiên nhất được nêu trong Niên Giám Tòa Thánh năm 2013 là sự bùng nổ trong ơn gọi phó tế vĩnh viễn, đặc biệt là ở châu Âu và Mỹ, nơi số phó tế đã tăng hơn 40% trong thập kỷ qua.

Niên Giám Tòa Thánh 2013 đã ghi lại các dữ liệu chính trong đời sống của Giáo Hội Công Giáo trên thế giới, trong năm 2012, cho đến cuộc bầu cử Giáo Hoàng vừa qua. Trong thời gian này Giáo Hội có thêm 11 Tòa Giám Mục, 2 giáo hạt Tòng Nhân, 1 hạt đại diện tông tòa và 1 miền phủ doãn tông tòa.
      Bên cạnh đó một miền phủ doãn tông tòa đã được nâng lên bậc giáo phận và 2 miền phũ doãn dành cho các tín hữu theo nghi lễ Đông Phương được nâng lên hàng giáo phận.

      Số người Công Giáo trên toàn thế giới đã tăng từ 1.196 tỷ trong năm 2010 đến 1.214 tỷ trong năm 2011, tức tăng 1.5%. Sự tăng trưởng này là chỉ cao hơn một chút so với sự tăng trưởng dân số của thế giới là 1.23%. Sự hiện diện của người Công Giáo trên thế giới chủ yếu vẫn không thay đổi, tức là vẫn ở mức 17.5%. 

Số người Công Giáo Phi Châu tăng 4.3%. Châu Á tăng 2.3%. Sự tăng trưởng về số lượng người Công Giáo ở Mỹ và châu Âu vẫn ổn định, phù hợp với tăng trưởng dân số là 0.3%.

         Trong năm 2011, tổng số người Công Giáo được rửa tội phân phối trên các lục địa là: 16.0% ở châu Phi, 48.8% ở châu Mỹ, 10.9% ở châu Á, 23.5% ở châu Âu và 0.8% ở Châu Đại Dương.
         Số lượng các Giám Mục trên thế giới tăng từ 5104 đến 5132. Sự gia tăng đặc biệt có liên quan đến Châu Đại Dương (4.6%) và châu Phi (1.0%). Số các Giám Mục ở Mỹ và Châu Âu không thay đổi bao nhiêu và vẫn chiếm 70% số Giám Mục trên toàn thế giới.
        Tính chung các linh mục triều và dòng, tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2001, Giáo Hội có 405,067 linh mục; một thập niên sau, tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2011, Giáo Hội có 413,418 linh mục. 
       Số phó tế vĩnh viễn đang bùng nổ trên toàn cầu. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2001, Giáo Hội có 29,000 phó tế. Một thập niên sau, Giáo Hội có 41,000 phó tế. 
       Các phó tế ở châu Âu tăng từ 9,000 trong năm 2001, đến 14,000 trong năm 2011, tức là tăng hơn 43%. 
      Ở Mỹ số lượng phó tế tăng từ 19,100 phó tế năm 2001 lên hơn 26,000 trong năm 2011. 
       Như vậy, số phó tế ở châu Âu và châu Mỹ chiếm 97.4% tổng số phó tế toàn cầu.
      Số nữ tu đã giảm từ 792,000 trong năm 2001 còn 713,000 vào năm 2011.
       Các chủng sinh trên toàn cầu tăng từ 112, 244 vào năm 2001 lên 120,616 vào năm 2011, tức tăng 7.5%. Sự phát triển rất khác nhau trong các châu lục. Trong khi châu Phi tăng 30.9% và châu Á tăng 29.4%, châu Âu sụt 21.7% và châu Mỹ đã sụt 1.9%.
                             
                                                                               Nguồn tin: Vietcatholic

PHÂN TÍCH CÂU “KẺ MẠNH LÀ KẺ VÁC NGƯỜI KHÁC TRÊN VAI MÌNH CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ KẺ ĐẠP LÊN VAI NGƯỜI KHÁC ” CỦA NAM CAO

Dẫn nhập
Nam Cao, tên thật là Trần Hữu Tri sinh năm 1917 tại xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông dạy học rồi chuyển sang viết văn từ lúc còn rất trẻ. Tên tuổi của ông thực sự được quen biết từ sau khi truyện ngắn Chí Phèo- một truyện ngắn xuất sắc của ông và của nền văn học hiện thực Việt Nam xuất hiện vào năm 1941. Một truyện ngắn đáng chú ý khác mà Nam Cao viết về tầng lớp tiểu tư sản trí thức nghèo, đó là tác phẩm Đời Thừa. Trong tác phẩm Đời Thừa, tác giả phản ánh một ước mơ được sống trong cảnh hòa bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân và tầng lớp tri thức nghèo. Tác giả cảm thông và xót xa đối với tấm bi kịch tinh thần đau đớn dai dẳng của người tri thức nghèo có tài năng, có tâm huyết và giàu lòng nhân đạo trong xã hội lúc bấy giờ. Nam Cao còn lên án gay gắt cái xã hội ngột ngạt bóp chết mọi ước mơ, cướp đi cuộc sống chân chính của con người, đầu độc tâm hồn và mối quan hệ giữa người và người mà làm cho bản chất tốt đẹp của con người thay đổi. Trong tác phẩm đời thừa, Nam Cao viết: “Kẻ mạnh là kẻ vác người khác trên vai mình chứ không phải là kẻ đạp lên vai kẻ khác”. Vậy, kẻ mạnh mà tác giả muốn nói đến ở đây là kẻ mạnh như thế nào? Chúng ta phải làm gì, phải sống như thế nào để trở nên kẻ mạnh vác người khác trên vai mình chứ không phải là kẻ mạnh đạp lên vai người khác? Dưới đây, em xin phân tích để làm sáng tỏ câu nói trên.
I. Kẻ mạnh đạp trên đầu người khác và kẻ mạnh vác người khác trên vai mình?
1. Thế nào là kẻ mạnh?
Theo từ điển Tiếng Việt, kẻ mạnh là một người hay một tổ chức vượt trội hơn về sức lực, tiềm lực, là kẻ mạnh về mọi mặt, có khả năng chịu đựng gánh vác trách nhiệm nặng nề trong công việc đối với một người hay một tổ chức nào đó…(Nguyễn Như Ý, Đại Từ Điển TiếngViệt, nxb VH-TT, 1999). Nhưng ngược lại, kẻ mạnh cũng có thể dùng sức mạnh của mình để chà đạp lên người khác…
          Có rất nhiều kẻ mạnh khác nhau, với bài viết này , em xin được trình bày kẻ mạnh về kẻ mạnh với sức mạnh của vũ khí, quyền lực, tiền bạc; và kẻ mạnh với sức mạnh của tình yêu, niềm tin và hy vọng.
2. Kẻ mạnh đạp lên vai người khác.
          Trong tác phẩm Đời Thừa, khi đứng trước một sự lựa chọn nghiệt ngã, một bên là sự nghệp văn chương của riêng mình, một bên là sự sống của gia đình, nhân vật Hộ đã đấu tranh rất quyêt liệt. Tư tưởng sống ích kỷ để trở nên kẻ mạnh của một nhà triết học đã từng cám dỗ Hộ. Đó là: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”. Trước gánh nặng của gia đình, Hộ điên người lên vì cứ phải xoay tiền để lo cho cuộc sống của vợ con. Hộ còn điên người lên vì con khóc mà không lúc nào được yên tĩnh để sáng tác, vì thế mà Hộ trở nên cau có và gắt gỏng với con, với vợ, với những người thân của Hộ. Hộ đã muốn xua đuổi vợ con ra khỏi nhà để quang đi cái gánh nặng của người chồng là cứ phải lo kiếm tiền và dành thời gian để chăm lo cho cuộc sống của gia đình. Vì muốn thành công trong sự nghiệp văn chương, muốn trở nên một kẻ mạnh mà Hộ đã muốn xua đuổi và đối xử tàn nhẫn với vợ con, là những người thân yêu của mình, cùng chung sống với mình, cùng chia ngọt sẻ bùi với mình trong cuộc sống hàng ngày…
Trong xã hội mà chúng ta đang sống, kẻ mạnh đã và đang dùng sức mạnh của quyền lực, của vũ khí, của tiền bạc…để chà đạp lên đầu người khác một cách tàn bạo và thô thiển. Đau đơn thay, chúng lại chà đạp lên chính những người thân của mình, dân tộc mình. Chúng dùng súng, dùng búa, dùng liềm- những thứ được trang bị để bảo vệ dân, bảo vệ đất nước-, thì chúng lại dùng để đàn áp, đánh đập chính dân tộc mình và cắt tỉa những người tri thức yêu nước…Chúng thêu dệt nên huyền thoại, nên những trang sử, những tư tưởng sai lệch để đầu độc tâm hồn và tư tưởng của nhân dân, lại còn bắt cả dân tộc học tập và làm theo. Lại nữa, chúng đổi trắng thay đen, ca tụng kẻ gian ác và lên án người vô tội nhằm che dấu sự thật, che dấu những tội ác khủng khiếp mà chúng đã gây ra cho con người, cho dân tộc để thỏa mãn lòng ích kỷ của chúng... Trong khi đó, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc như: con người đoàn kết yêu thương nhau, trẻ kính già, con cái tôn kính cha mẹ, người mang ơn thì phải trả ơn người làm ơn cho mình…thì chúng lại gây ra sự hận thù, chia rẽ, con cái đấu lại cha mẹ, người mang ơn tố lại người làm ơn cho mình…làm cho mối dây liên kết tình người, đoàn kết dân tộc bị phá vỡ. Như trong tác phẩm Đời thừa, tác giả viết thì“chúng giống như một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác lên đôi vai mình”.
3. Kẻ mạnh vác người khác trên vai mình.
Vì muốn thành công trong sự nghiệp văn chương, nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời Thừa đã muốn ruồng rẫy để mặc cho vợ con khổ sở. Tư tưởng muốn thành công muốn làm kẻ mạnh thì phải độc ác, tàn nhẫn đã cám dỗ Hộ. Nhưng, Hộ là một con người. Hộ nghĩ rằng: “Hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến”. Suy nghĩ ấy đã giúp Hộ tỉnh ngộ, sống chân chính, yêu thương với nguyên tắc sống rất cao cả. Kamax nói: “Chỉ có súc vật mới quay lưng laị với nỗi khổ của đồng loại, để chỉ chăm sóc cho bộ da của mình”. Hộ cho rằng, con người khác con vật là ở chỗ sống có tình yêu thương, sự tha thứ…
Theo Kinh Thánh bí quyết của tình yêu là sự chết, tức là hy sinh. Chỉ có yêu thương, tha thứ mới giúp chúng ta có sức mạnh vác người khác trên vai của mình. Khi sống yêu thương, tha thứ cho nhau, con người sẽ cảm nghiệm thấy:“tình yêu mạnh hơn sự chết” (x. Dc 8, 6) mà “dám hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu” (x. Ga 15, 13) chứ không đạp lên vai người khác.
Vì yêu thương, Hộ đã mở lòng bác ái để cứu vớt, cưu mang Từ, một nạn nhân đáng thương, bị tình nhân bỏ rơi với đứa con mới đẻ. Hộ phụng dưỡng mẹ già của Từ, đón nhận đứa con của Từ…. Hộ tha thứ và quên đi quá khứ của Từ. Vì yêu thương, muốn chăm sóc cho vợ con, cho gia đình, Hộ đã tính chuyện sẵn sàng gác bỏ sự nghiệp văn chương của mình để lao vào kiếm tiền lo cho vợ con để xây dựng hạnh phúc gia đình…
II. Kẻ mạnh đạp lên vai người khác sẽ bị tiêu diệt, ngược lại kẻ mạnh vác người khác trên vai mình sẽ tồn tại.
1. Kẻ mạnh đạp lên vai người khác sẽ bị tiêu diệt
Chúng ta đang sống trong một thế giới mà nền kinh tế, khoa học kỹ thuật phát triển không ngừng, đem lại nhiều lợi ích cho con người. Thế nhưng, chúng ta cũng đang sống trong một thế giới mà khủng bố, chiến tranh… ngày một lan rộng, đã gây ra và để lại cho con người những hậu quả khủng khiếp. Nhiều nước có sức mạnh quân sự với những loại vũ khí nguyên tử có sức hủy diệt khủng khiếp. Nhiều nước thi nhau chạy đua vũ trang để đe dọa nhau và muốn giải quyết các vấn đề bằng bạo lực. Một thế giới mà kẻ mạnh đạp lên đầu kẻ yếu…
Nhìn lại lịch sử thế giới qua hai cuộc chiến tranh, người ta ước tính: thế chiến thứ nhất (1914-1918), đã làm cho khoảng 37 triệu người bị chết, mất tích và bị thương, chi phí cho chiến tranh hết khoảng 200 tỷ USD. Thế chiến thứ hai (1939-1945), đã làm cho khoảng 56 triệu người bị chết, mất tích và bị thương (Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử thế giới, vxb VH-TT, năm 1999, trang 191 và 261). Kẻ thắng cũng như kẻ bại đều chịu những thiệt hại không lường trước được mà không giải quyết được vấn đề. Những kẻ mạnh như: Chủ nghĩa Thực dân, chủ nghĩa Đế quốc, chủ nghĩa Phát xít, Chủ nghĩa Cộng Sản… đã và đang bị loài người lên án và tiêu diệt.
2. Kẻ mạnh vác người khác trên vai mình sẽ tồn tại.
          Ngược lại với một thế giới với những nước có sức mạnh của quân đội của vũ khí, quyền lực, tiền bạc, có thể nói rằng, người ki-tô hữu chúng ta sống trong Vương quốc khác nữa- đó chính là Hội Thánh. Hội Thánh Chúa không có sức mạnh của quân đội, của vũ khí, tiền bạc, quyền lực. Hội Thánh Chúa chỉ có sức mạnh của con tim biết yêu thương, sự tha thứ, niềm tin và hy vọng. Nơi mà: “Dù trong đêm tối, dù trong tuyệt vọng, khi không còn ý nghĩa gì nữa, chúng ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa của sự sống”. (Timothy Radcliffe, OP., Hát Lên Bài Ca Mới, Chân Lý 2000).
Lịch sử Hội Thánh suốt 2000 năm qua phải hứng chịu những bạo lực, bị những kẻ mạnh dùng sức mạnh của vũ khí, quân đội chà đạp…nhằm tiêu diệt Hội Thánh. Không lấy bạo lực để đáp trả bạo lực nhưng bằng con đường yêu thương, tha thứ và sự kiên trì dạy dỗ, Hội Thánh đã đưa nhiều người trở về với Chúa, góp phần xây dựng hòa bình thế giới, đem niềm tin, niềm hy vọng đến cho con người. Trải qua bao sóng gió, khó khăn, bách hại, lịch sử Hội Thánh đã để lại cho chúng ta một bài học như: càng chém giết, càng bắt bớ, thì người ta càng làm đạo Chúa lan rộng mãi, như lời Tertullianô nói: "Máu các Thánh Tử Đạo là hạt giống trổ sinh con nhà có đạo".  
Trong thời cách mạng Pháp, Napolêon- một kẻ bách chiến bách thắng đã muốn dùng sức mạnh của để chà đạp và muốn tiêu diệt Hội Thánh. Napolêon với sức mạnh của mình đã tự tin tuyên bố với Hồng Y Consalvi, Quốc Vụ Khanh Toà Thánh rằng: "Ông không biết sao: tôi có thể tiêu diệt cả Hội Thánh".  Hồng Y Consalvi hóm hỉnh trả lời:"Thưa ngài, chính chúng tôi đây là kẻ ở bên trong Hội Thánh, mà dù với bao gương xấu, tội lỗi, chia rẽ khuyết điểm vẫn không phá nổi Hội Thánh, suốt 19 thế kỷ qua thì sức mấy mà ngài phá tan Hội Thánh được!". Về sau, Napolêon đã tuyên bố: "Các dân nước qua đi, các ngai vàng sụp đổ, Hội Thánh vẫn tồn tại!"  (x. ĐHY Phan-xi-cô Xa-vi-ê Nguyễn Văn Thuận, Những người lữ hành trên đường hy vọng, trang 97).
Tạm kết
          Câu nói của Nam Cao mang một triết lý sống sâu sắc. Là người, chúng ta phải sống có tình yêu thương, chia sẻ, cảm thông và giúp đỡ lẫn nhau… Sống trên đời, con người không thể sống thiếu tình yêu thương, càng không thể sống đơn độc mà chỉ biết sống cho riêng mình. Kẻ nào sống đơn độc, thiếu tình yêu thương, chà đạp lên người khác sẽ bị loại trừ và tiêu diệt. Ngược lại, người nào sống yêu thương, chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau… sẽ tồn tại và phát triển. Sống trong một thế giới hòa bình hạnh phúc, con người gần gũi yêu thương nhau là mong ước của nhiều người nhiều dân tộc. Và đó cũng là mong ước và là quan niệm văn chương của Nam Cao: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và gới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó chứa đựng được những gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng tình bác ái, sự công chính… Nó làm cho người gần người hơn”.
                                                      Maria Nguyễn Thị Thiện
                                                   Dòng Thánh Tâm Truyền Giáo

Thứ Tư, 15 tháng 5, 2013

CHƯƠNG TRÌNH CỨU ĐỘ CỦA CHÚA GIESU


Bạn thân mến:
            Màu nhiệm Lịch sử Cứu độ là ý định yêu thương từ muôn đời của Thiên Chúa, nhằm thông ban sự sống, hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho loài người. Ý định này được thực hiện qua công cuộc sáng tạo của Ngài. Nhưng vì loài người khước từ, mở đường cho sự dữ sâm nhập vào thế gian, gây nên đau khổ và sự chết. Thiên Chúa vẫn thực hiện ý định yêu thương, nên đã sai con một xuống thế làm người để cứu độ loài người. Ý định của Thiên Chúa được thực hiện qua một chương trình, diễn ra trong lịch sử loài người: Lịch sử dân Irael.
 Lịch sử Cứu độ chính là:
-         Cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người,
-         Bắt đầu từ việc Thiên Chúa tạo dưng trời đất muôn vật,
-         Trải qua các bước thăng trầm trong thời gian,
-         Nhưng luôn quy hướng về Chúa Kitô là trung tâm của lịch sử,
-         Và chỉ hoàn tất khi Chúa Kito lại đến.
 Thiên Chúa đã làm công việc mặc khải đó qua hai cuốn sách.
-         Cuốn sách vũ trụ: Mạc khải tự nhiên.
-         Cuốn sách Kinh Thánh: Mạc khải siêu nhiên.
 Có tất cả 3 cuộc Mạc khải của Thiên Chúa:
1.    Mạc khải tự nhiên.
2.    Mạc khải siêu nhiên.
3.    Mạc khải trong Kinh Thánh.
Chúng ta đi sâu vào ơn Cứu độ của Thiên Chúa qua 2 Phần:
    Phần I: Cựu ước: Chuổn bị ơn Cứu độ.
    Phần II: Tân ước ban ơn Cứu độ.
       Giáo hội nhìn nhận Cựu ước có 46 cuốn, thuộc nhiều thể văn khác nhau như: Lịch sử, luật pháp, giáo huấn, giảng thuyết, thi ca do nhiều tác giả viết, rải rác từ khoảng 1000 năm trước khi Chúa Giêsu sinh ra.
          Cựu ước là một lịch sử hướng về tương lai. Cựu ước hướng đến việc thực hiện ý định Cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân loại. Mạc khải về ý định Cứu độ của Thiên Chúa chỉ được hoàn tất nơi Đức Kitô.
 Cựu ước hướng tới Đức Kitô, báo trước và chuổn bị cho Người.
 Mở đầu phần Cựu ước là sách sáng thế. Nói về việc Thiên Chúa sáng tạo muôn vật trên mặt đất này, muôn tinh tú trên bầu trời và đặc biệt Thiên Chúa sáng tạo con Người theo hình ảnh của Ngài. Mọi việc Thiên Chúa sáng tạo đều tốt đẹp. Diễn tiến cuộc sáng tạo của Ngài trong 6 ngày như sau:
-         Nhập đề: Thiên Chúa đã phán.
-         Ra lệnh: Hãy có ánh sáng, hãy có đèn trời …..
-         Mô tả việc: Thiên Chúa phân rẽ sáng và tối…..
-         Đặt tên hoặc chúc phúc: Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, tối tăm là đêm….
-         Ca tụng: Thiên Chúa thấy thế là tốt lành.
-         Kết thúc: Đã có một buổi chiều và một buổi sáng. Đó là ngày thứ nhất……….
          Sáu ngày Thiên Chúa tạo dựng được chia làm 2 giai đoạn song song và có liên hệ với nhau là: Công trình phân tách và công trình Trang trí.
          Con Người được Thiên Chúa sáng tạo trong ngày thứ sáu, theo hình ảnh của Thiên Chúa và đặt cho con người làm chủ mọi vật Thiên Chúa sáng tạo, được đặt tên cho các con vật. Sau đó Thiên Chúa đặt con người trong vườn Êden để canh tác: trong vườn này muôn trái cây đều được ăn nhưng chỉ có một trái cây ở giữa vườn Người không được ăn và nếu ăn thì sẽ bị chết.
           Rắn là loại xảo quyệt nhất trong các loài Chúa đã dựng lên. Đã cám dỗ bà Evà ăn và sau đó đưa cho cả ông Ađam đang ở đó cùng ăn. Ăn xong mắt hai ông bà đã mở ra và thấy mình trần truồng, liền đi kết lá cây làm khố che thân, Thiên Chúa vào vườn và hỏi như mọi khi, lúc này Ông bà đang lấp sau rặng cây, vì sấu hổ mình trần truống. Thiên Chúa biết là ông bà đã ăn trái cây ta cấm, Thiên Chúa đã trừng phạt ông bà: Thiên Chúa phán với ông Adam rằng “ Từ nay người phải cực nhọc mới có bánh ăn, phải làm lụng vất vả mới nuôi được cuộc sống ” và Ngài nói với người đàn Bà: “ Phải cực nhọc khi mang nặng đẻ đau ”, rồi người đuổi ông bà ra khỏi vườn Êden. Từ đó tỗi lỗi đã lan tràn ra khắp nơi và truyền lại cho con Cháu sau này và mãi mãi về sau và từ đây con người đã đánh mất ân nghĩa với Chúa.
           Tội lỗi càng gia tăng Khi Cain giết Aben, trật tự Thiên Chúa bị đảo lộn “ con Trai Thiên Chúa lấy con gái loài người ”, Thiên Chúa đã hủy diệt mọi loài Thiên Chúa dựng nên, nhưng không tiêu điệt hết mà cứu vớt gia đình ông Noe và tái tạo loài người, sau đó tiếp tục là tội kiêu ngạo ở Tháp Baben. Tuổi thọ giảm tức là con người đã đánh mất ân sủng. Tội là nguyên nhân sự chết, con người chết sớm vì tội lỗi gia tăng. Qua tội lỗi của con người nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong tội nhưng đã lên kế hoạch cứu đội loài người.
          Thiên Chúa chuổn bị cho kế hoạch cứu độ của Ngài bằng cách kêu gọi ông Apraham, một người du mục, thuộc chi tộc Têrắc, Thành Ur, xứ Canđê.
  Khi nghe được tiếng Thiên Chúa mời gọi, Ông mau mắn đáp lại và dứt bỏ tất cả để ra đi, dù không hề biết mình sẽ đi đâu và được những gì.
 Thiên Chúa đã hứa với ông là sẽ cho:
-         Ông một dân tộc sẽ xuất phát từ Apraham.
-         Một đất nước cho dân tộc ấy.
-         Một phúc lành sẽ đến cho muôn dân nhờ Apraham.
           Sau đó Thiên Chúa thanh luyện niềm tin của ông khi yêu cầu ông sát tế I-sa-ác một thử thánh kinh khủng, nhưng ông Ap-ra-ham đã vâng phục. Lòng tin này thật phi thường, vượt trên mọi lí luận, tính toán và tình cảm của con người. Ông đã chấp nhận mọi điều Chúa dạy và mọi điều Chúa hứa.
           Ông sinh được 12 người con trai đứng đầu 12 chi tộc Is-ra-el. Các anh cư xử độc ác với Giuse, khi định giết cậu và gải pháp cuối cùng là bán Giuse sang Ai cập, nhưng Thiên Chúa đã biến nó thành cơ hội để cứu cả gia đình Gia-cóp thoát khỏi nạn đói và phát triển một dân đông đảo trên đất Ai cập.
          Thiên Chúa thấy nỗi cơ cực của dân và chuẩn bị cho họ một vị cứu tinh là ông Mô-sê. Ông được vị công Chúa cứu lên khỏi mặt nước và được công Chúa nuôi tại hoàng cung. Thiên Chúa đã dùng ông để cứu dân tộc It-ra-el ra khỏi Ai cập. Qua ông Mô sê, Thiên Chúa giáng xuống Ai cập nhiều tai họa. Nhưng phải đến tai họa thứ mười: Giết con đầu lòng Ai cập, thì con Chúa mới được ra đi. Bàn tay mạnh mẽ của Chúa đã đưa dân người qua biển đỏ và chôn vùi quan thù trong lòng biển sâu.
          Sau đó Ông Mô Sê đã dẫn dân đi trong xa mạc và trong xa mạc ông Mô sê đã  găp biết bao điều kho khăn mà dân của người. Chính những lần thử thách mà Thiên Chúa gửi đến cho dân chính là Thiên Chúa thử lòng tin của dân có còn trung thành với Ngài nữa không.
          Và Thiên Chúa đã kí kết với dân người một Giao ước, là Giao ước trên núi Sinai, Thiên Chúa đã chon dân riêng của người và chăn sóc như cha với con.
 Giao ước này được kí kết bằng một nghi lễ: Ông Mô sê đã lấy máu của các con vật hi sinh đổ một nửa trên bàn thờ và một nửa ông rảy trên dân chúng. Đó là hành động liên kết chặt chẽ với nhau những người cùng chung một đòng máu, chung một gia đình, chung một vận mệnh.
 Hòm bia Giao ước Thiên Chúa đã khắc 10 điều răn được cất giữ trong một hòm bia có dát vàng.
 Phụng tự gồm:
-         Lễ toàn thiêu.
-         Lễ thông hiệp.
-         Lễ xá tội.
 Sau khi ông Mô sê chết, Ông Giosue được Chúa chon để đưa dân Itrael vào đất Canan. Cuộc chinh phục đất hứa kéo dài khoảng  50 năm. Sau khi đã chiến thắng, họ đã thành lập một quốc gia.
          Sau một thời gian họ sống trên đất của họ thì nhiều lần họ đã bội Giao ước, bỏ Chúa để bắt chước lối sống của dân Canan mà thờ lạy ngẫu tượng.
          Thiên Chúa đã sai các Thủ Lãnh đến để cứu thoát dân người, Thiên Chúa dùng các Thủ Lãnh với mục đích đưa ra bài học có thể tóm lại 4 chữ: Tội, Phạt, Hối, Cứu.
-         Tội: Dân It-ra-el phạm tội bỏ Chúa.
-         Phạt: Thiên Chúa sửa dậy bằng tai họa.
-         Hối: Dân hối cải, trở về với Chúa.
-         Cứu: Thiên Chúa gửi các Thủ Lãnh đến giải thoát.
  Thời kì các Thủ Lãnh kéo dài khoảng 200 năm.
          Trải qua kinh nghiệm chiến tranh của thời các Thủ Lãnh, dân It-ra-el thấy rõ nhu cầu cấp bách phải có một vị đứng đầu để có thể tập trung sức mạnh quân sự chống lại hiểm họa sâm lược từ các dân xung quanh. Do nhu cầu thực tế lịch sử đó mà khai sinh nền quân chủ của It-ra-el vị vua đầu tiên là Sao lê, là người lãnh đạo cuộc chiến đấu chống lại quân Philitinh. Cho đến trân chiến với Amalech, ông đã nghe lời dân mà không thi hành lệnh Thiên Chúa, nên Chúa đã bỏ ông và chọn người khác đó là Đavít. Đa vít là vị Vua đạo đức và tôn kính Thiên Chúa nhưng ông cũng là con người yếu đuối: ông đã phạm hai tôi lớn:
-         Tội ngoại tình
-         Tội sát nhân.
          Nhưng ông đã biết khiêm tốn nhận lỗi lầm của mình và khi Đavít chuổn bị vật liệu xây đền thờ, thì Chúa tỏ cho ông hay chính Chúa sẽ xây nhà cho ông.
          Đavít chết và Salomon lên kế thừa khoảng năm 970 tcn. Salômon là một vị Vua nổi tiếng là sự khôn ngoan. Ông đã thực hiện được ước mơ xây dựng đền Thờ cho Chúa của Vua cha.
          Sau đó liên tiếp những lỗi lầm của Vua Salômon và con của SalômonRôbôam đã đưa dân chúng vào con đường lầm lạc và đưa đất nước đến chỗ diệt vong.
          Trước bối cảnh như vậy Thiên Chúa sai các Ngôn sứ đến để phục hưng lại Tôn giáo, cải tổ Xã hội và đời sống luôn lý của dân chúng.
           Sau cuộc lưu đày ở Babylon, người Do Thái hồi hương, đời sống gặp nhiều khó khăn nhưng họ đã xây dưng lại được đền Thờ và tường thành Giêrusalem. Điều quan trọng là phục hưng về Tôn Giáo. Cuộc lưu đày đã giúp cho họ được Thanh tẩy, canh tân đời sống, trở về với Chúa, chăm chú học hởi Lề Luật.
          Việc chuốn bị đã đầy đủ “ Thời gian tới hồi viên mãn Thiên Chúa đã sai con một mình tới ” là Đức Giê su, con Thiên Chúa làm người, Thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và đã sinh ra tại Bê Lem, xứ  Giu đê. Chúa Giê su xuống thế làm người  giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Cũng một người mẹ trần thế như bất cư một người bình thường nào trên trần gian nay. Đức Mẹ là người được Thiên Chúa tuyển chọn để cưu mang và hạ sinh Đức Giê Su.
          Chúa Giêsu làm người là để đến với tất cả loài người, không phân biệt Do Thái hay dân ngoại, sang giàu hay nghèo hèn. Chúa Giêsu hạ sinh , từ những người tầm thường cho đến những Đạo sĩ thông thái đều kêu mời đến thờ Đấng Cứu Thế. Đúng như tiên tri Isaia đã tiên báo Chúa Giêsu đến để:
-         Để đem Tin Mừng cho người nghèo khó
-         Là ánh sáng cho hết mọi dân tộc ( Is 42,9;49,6 )
 Cuộc đời của Chúa Giêsu sống tại trần gian được chia làm 3 thời kì:
-         Từ 1- 30 tuổi, Chúa Giê Su sống ẩn dật tại Nadarét miền Giuđê
-         30 tuổi Ngài đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ
-         33 tuổi Ngài chịu chết trên cây Thập Giá thời quan phong Xiophilato.
          Trong thời gian Ngài sống ẩn dật tại Nadarét: Ngài đã vâng phục Cha và Mẹ Người. Sống như một người bình dân, lao động vất vả để kiếm sống. Ngài đã rất chăm chú học Lời Chúa, thể hiện ở chỗ khi Cha và Mẹ người dẫn lên đền Thờ, thì Ngài không về luôn cùng Cha và Mẹ người mà ở lại nghe các Thầy Lêvi giảng dậy trong hội Đường.
          Băt đầu cuộc đời công khia của mình. Ngài đã đến sông  Giodan chịu phép rửa của ông Gioan. Nhưng ông Gioan không dán rửa cho Người và ông nói “ Ngài là Đấng quền năng, sao con có thể rửa cho Ngài, Ngài đến sau tôi và quền bính hơn tôi, tôi không đáng sách dép cho Ngai, Nhưng Ngài nói bây giờ cứ vậy đi ”
          Chỉ có Đức Giêsu là người duy nhất đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì vậy chỉ có Đức Giêsu là Đấng Cứu Độ duy nhất, là Đấng Trung Gian duy nhất và hoàn hảo có thể đem ơn cứu độ cho loài người. Như vậy chân lý cơ bản liên quan đến sự cứu độ của mỗi cá nhân chính là sự hiệp nhất với Đức Giêsu để được cứu độ. Đức Giêsu đã hoàn tất việc cứu độ, nhưng ơn Cứu độ của mỗi người lại tuỳ thuộc vào việc đón nhận Đức Giêsu của từng người. Ngay từ buổi đầu, Giáo Hội sơ khai đã tuyên xưng niềm tin này :“Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó mà được cứu độ.” (Cv 4,12)
          Chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có thể chiến thắng tội lỗi và sự chết, vì vậy để có thể thông phần ơn cứu độ, con người phải hiệp nhất  với Chúa Giêsu. Các phương thế giúp con người thông phần ơn cứu độ: đức tin, đức cậy, đức mến, các bí tích, nhất là Rửa tội và Thánh Thể. Sự hiệp nhất của mỗi người chúng ta với Chúa Giêsu qui tụ chúng ta nên cộng đoàn Giáo Hội. Thánh Kinh đã dùng nhiều hình ảnh để diễn tả Giáo Hội: Cây nho, Đền thờ, Thân mình, Hiền thê.Giáo Hội cũng hiệp nhất với Chúa Giêsu khi tiếp tục sứ vụ của Ngài: Tư Tế, ngôn Sứ và Vương Đế.
          Bắt đầu tại Giêrusalem Trong cộng đoàn tiên khởi này, đứng đầu là thánh Phêrô và các Tông đồ. Khi số Tín hữu gia tăng, các tông đồ tuyển chọn thêm những người cộng tác với các Ngài để phục vụ bàn thờ và phục vụ người nghèo trong Giáo Hội. Họ được  gọi là các tá viên, bây giờ Giáo Hội gọi là các phó tế. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, các phó tế hoạt động rất hiệu quả (x. Cv 6-8).  Ông Stêphanô, là một trong bảy phó tế Do Thái gốc Hy Lạp, được tuyển chọn để giúp việc cho các Tông đồ. Với sự xuất hiện của ông và những đồng bào Do Thái gốc Hy Lạp, cộng đoàn những người theo Đức Kitô bắt đầu phát triển ra khỏi phạm vi của Do Thái Giáo và trung tâm Do Thái Giáo là Giêrusalem, lòng tin vào Đức Giêsu Kitô được truyền bá đi khắp nơi, đến với những người không phải là Do Thái.
          Cho đến tận cùng trái đất Giáo Hội mở rộng cửa đón nhận mọi người không phân biệt chủng tộc, màu da. Thánh Phaolô là người góp phần quan trọng nhất vào việc cắt đứt dây ràng buộc giữa Kitô giáo và Do Thái giáo, mở rộng con đường cho muôn dân đến với Đức Kitô và cho Giáo Hội đến với muôn dân. Công Đồng không buộc các Kitô hữu phải giữ tập tục của đạo Do Thái nữa. Như vậy, từ nay Giáo Hội Chúa Kitô mở rộng cửa cho mọi người. Kitô giáo là cùng đích của Do Thái giáo. Vì vậy các Kitô hữu phải kính trọng và thân thiện với Do Thái giáo.
          Giáo Hội hướng về cánh chung  Đức Giêsu Kitô đã lên trời, Giáo Hội tiếp tục công trình của Ngài cho đến ngày Ngài trở lại để phán xét muôn loài. Đó là ngày hoàn tất lịch sử cứu độ, ngày tiêu diệt vĩnh viễn tội lỗi và sự chết. Thiên Chúa sẽ đổi mới mọi sự : xác loài người ta sẽ sống lại vinh quang, muôn loài muôn vật được giải thoát khỏi cảnh hư nát.
          Đó là toàn bộ công trình cứu độ của Thiên Chúa, từ khi sinh ra cho đến lúc Ngài trút hơi thở cuối cùng trên Thánh Gía. Cả con người Ngài là một tình yêu bao la rộng lớn, Ngài luôn hướng đến con người và làm cho họ được trở về với tình yêu bao la của Thiên Chúa. Con người có tội lỗi nhưng Ngài không bỏ rơi con người để con người chìm ngập trong tội. Thiên Chúa đã dùng cả con người của Ngài để đem lại phần tốt nhất cho con người, để con người nhìn vào đó để biết được tình yêu rộng lớn mà Ngài đã dành cho nhân loại ta.

       Ant Công Chính

LỀ LUẬT TRONG TỰ DO


Bạn thân mến
 Tự do và lề luật là những câu hỏi thường được đặt ra trong đời sống thường ngày, khi con người thực hiện các hành vi của mình. Thâm chí trước khi nói hoặc làm một việc gì, thì ngay trong suy nghĩ con người đã đặt ra những câu hỏi. Tôi nói như thế có được không? Tôi làm như thế có đúng không? Và cũng không ít những quan niệm trái ngược nhau trong cuộc sống, tiêu biểu là hai thái độ sau đây: “Luật lệ chỉ thêm gánh nặng, gây phiền phức và làm cho tôi, cho bạn mất tự do - Đã có tự do tại sao lại buộc tôi phải tuân theo những luật luân lý do người khác ban hành.” Vậy sau khi đã được học qua một kỳ học môn Luân lý học, người bàn luân còn nhiều yếu kém, nhưng cũng xin được đưa ra một vài ý kiến để chúng ta cùng tìm ra những lối sống thích hợp, hầu góp phần làm cho cuộc sống thêm phong phú và có ích cho nhau hơn.
“Luật lệ chỉ thêm gánh nặng, gây phiền phức và làm cho tôi, cho bạn mất tự do”
Trước hết chúng ta cần công nhận với nhau rằng, bất cứ một tổ chức, một xã hội dù lớn hay nhỏ đều cần có luật lệ. Dù bạn có muốn hay không đó là điều hiển nhiên, nếu không đó sẽ là một tổ chức, một xã hội rừng rú và chúng ta không thể tưởng tượng nổi sự hỗn loạn của nó. Một trong những trở ngại lớn của thời đại chúng ta ngày nay là: con người đã sử dụng tự do của mình quá mức, gây nên biết bao hậu quả đau thương cho con người cho đồng loại. Họ chỉ còn nghĩ đến bản thân cá nhân và làm những gì mình ưa thích. Họ không còn tôn trọng luật lệ chỉ vì tôn trọng tự do cá nhân, sợ luật lệ gò bó làm mất đi cuộc sống đích thực theo thiển ý của họ; ngay cả đến những lời khuyên, lối sống lành mạnh để dẫn họ đến một cuộc sống hạnh phúc đích thực cũng bị lãng quên.
Vậy phải chăng lề luật làm mất tự do của con người?  hay ngược lại lề luật làm cho con người được tự do, bảo vệ con người, mang đến cho con người một cuộc sống hạnh phúc. Vấn đề mà chúng ta bàn ở đây liên quan đến “ tự do” và “luật lệ” vậy tự do là gì ? và như thế nào là  tự do đích thực? luật là gì?  từ đó chúng ta sẽ thấy được lề luật có làm mất tự do con người không.
Tự do bên ngoài: thường được hiểu như là không bị bất cứ một cái gì bên ngoài cản trở, muốn làm gì thì làm: tôi muốn nằm ngủ hay muốn lao động hoặc muốn vào nhà người ta mở tủ họ lấy tiền xài chơi… đều làm được, không bị ai ngăn cấm, không bị ai cản trở cả… thế là tôi có tự do bên ngoài. Hay khi ra đường tôi muốn đi thế nào tùy thích không quan tâm tới người khác. Theo nghĩa này: (một người sống buông thả theo dục vọng, không bị điều kiện vật lý hạn chế, không bị luật lệ xã hội ngăn cấm, cũng được xem như là có tự do bên ngoài).
          Tự do đích thực : khả năng bắt nguồn từ lý trí và ý chí, có thể hành động hay không hành động, có thể làm việc này hay việc khác, và như vậy, tự mình làm những hành động có ý thức. Nhờ có ý chí tự do, mỗi người tự quyết định về chính bản thân của mình. Trong con người sự tự do là một sức mạnh để  tăng trưởng và trưởng thành trong chân lý và điều thiện. Sự tự do đạt tới mức hoàn hảo, khi nó được quy hướng về Thiên Chúa, là vinh phúc của chúng ta’.  (GLHTCG, số 1731). Đối với Công đồng Vatican II, “tự do đích thực là một dấu chỉ độc đáo về hình ảnh Thiên Chúa nơi con người. Bởi vì Thiên Chúa đã muốn con người tự quyết định để tự mình kiếm tìm Đấng Tạo Hoá và nhờ kết hiệp với Ngài một cách tự do, con người đạt tới hạnh phúc viên mãn. Như vậy phẩm giá của con người đòi hỏi con người phải hành động theo sự chọn lựa ý thức và tự do, cân nhắc kỹ lưỡng và quyết định do xác tín cá nhân, chứ không bởi sức thúc đẩy của bản năng hay sức cưỡng chế ngoại tại. Con người đạt tới phẩm giá này, khi giải thoát khỏi nô lệ của đam mê, bằng hành động chọn lựa một cách tự do sự thiện, con người tiến về mục tiêu và cẩn thận tìm những phương tiện thích ứng. Vì tự do nhân loại đã bị tội lỗi làm tổn thương, cho nên phải nhờ ân sủng trợ giúp mới có thể hướng về Thiên Chúa một cách hiệu quả và trọn vẹn ”
Luât lệ là gì ?  “là những quy đinh theo lý trí để phục vụ công ích, do người có trách nhiệm trên tập thể ban hành. Là quy định, luật khác với lời khuyên hay sự gợi ý. Đó là một  mệnh lệnh phải thi hành hay là một nhu cầu luân lý phải thỏa mãn. Luật là đặt ý muốn của thượng cấp trên ý muốn của thành viên.”[1]
Trở về vời đề bài, tại sao họ nói như vậy? họ nói như vậy cũng có cái lý của họ. Thực vậy một số ít lề luật đã quá đặt nặng vấn đề như ngăn cấm cái này cấm cái kia, hay phải làm điều này, điều kia, làm cho cuộc sống bị khép kín, gò ép. Hoặc một số điều luật mang tính khuyên lơn, hãy làm điều này điều nọ cũng được xem như làm hạn chế tự do của con người.
Như vậy, thái độ đó của một số người là theo quan điểm tự do bên ngoài, đã có luật thì không thể có tự do được.
Vậy tự do có phải là thích làm gì thì làm ? có thứ tự do tuyệt đối không? Quả thực cuộc sống không chỉ đơn giản như vậy, thế gian này tôi dám chắc, bạn làm sao tìm ra được cái thứ tự do tuyệt đối như vậy. Và trên thế gian này không có cái gì là tuyệt đối cả. Nếu chúng ta đồng ý với nhau rằng: con người cũng bị hạn chế bởi rất nhiều điều, khách quan có, chủ quan có, hạn chế bởi không gian, thời gian…. Như vậy trong cuộc sống trần gian, chúng ta không hoàn toàn được tự do khỏi những ràng buộc và giới hạn, vì sống là tương giao, nhập cuộc, dấn thân và liên lụy. Ta có thể tự do với tổ chức này, nhưng lại nối kết hay liên lụy với tổ chức khác. Trong thời hôm nay, lệ thuộc và đồng lệ thuộc đã trở thành một qui luật. Vậy tự do cũng có khuôn khổ của nó và đồng thời cũng đi liền với trách nhiệm của nó. Khi con người đã suy nghĩ và chủ ý hành động một cách tự do thì con người bị ràng buộc với hành động đó, nghĩa là phải chịu trách nhiệm về hành động của mình. Tất cả mọi hành động do con người đã trực tiếp muốn thì trách nhiệm qui về họ. Tất nhiên lý trí con người phải dựa trên luật tự nhiên mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm hồn họ để họ có thể suy nghĩ điều mình nói việc mình làm có sai trái với lương tâm không. Như vậy tự do là đặc tính của các hành vi thuộc con người, được gọi là hành vi nhân linh. Vì thế mỗi người đều có quyền tự nhiên đòi người khác phải thừa nhận mình là người có tự do và trách nhiệm; và khi mỗi người hành xử quyền tự do của mình là phải hành xử trong tôn trọng quyền hành xử tự do của người khác. Chúng ta đặt ra câu hỏi, nếu thích làm gì thì làm liệu cuộc sống có hạnh phúc không? Theo quan điểm Kitô giáo, tự do luôn bao hàm trách nhiệm và sứ vụ. Thật vậy, đối với người môn đệ của Đức Kitô, tự do vừa là hồng ân vừa là sứ vụ : tự do đích thực giải thoát con người khỏi những ràng buộc để thanh thản dấn thân phục vụ. Chính vì vậy, thánh Tông đồ nhấn mạnh : “Thưa anh em, anh em đã được gọi để hưởng tự do. Có điều là đừng lợi dụng tự do để sống theo xác thịt, nhưng hãy lấy đức ái mà phục vụ lẫn nhau” (Gl 5,13). Hơn nữa, “tự do của con người đến từ Thiên Chúa, và bản chất của lề luật cũng đến từ Thiên Chúa và nó cũng biểu lộ sự tốt lành của Ngài đối với con người. Trái lại khi tuân giữ lề luật của Thiên Chúa, con người sa lánh tội lỗi, không làm nô lệ cho tội lỗi, nộ lệ cho ma quỉ, và họ có được tự do đích thực, sự tự do đích thực đó là sự tự do của những con cái Thiên Chúa. “Ngày Sa bát được làm ra vì con người, chứ không phải con người cho ngày Sa bát” (Mc 2,27). Luật Thiên Chúa như vậy, không hề khinh giảm tự do của con người và lại càng không gạt bỏ tự do; ngược lại, luật Thiên Chúa bảo vệ và cổ võ tự do. Còn về lề luật do con người thiết lập trong đời sống xã hội. Chúng ta biết rằng bất cứ một tổ chức xã hội dù lớn bé, để có thể tồn tại bình an và phát triển thì cần có luật do người có trách nhiêm ban hành. “Mục đích của luật do con người thiết lập cũng đem lại lợi ích cho con người.” [2]
Xã hội mà chúng ta đang sống cũng không thiếu những con người thành tâm thiện chí, lương tâm trong sáng, sống ngay lành, đối với họ lề luật lại như là một rào chắn có tác dụng rất tốt trong việc gìn giữ và bảo vệ họ khỏi những sai phạm làm ảnh hưởng đến họ và đến người khác. Họ không cảm thấy bị gò bó hay nặng nề khi tuân giữ luật. Luật lệ được làm ra vì con người chứ không phải ngược lại. Vd. Để đảm bảo được an toàn giao thông thì phải có luật để người tham gia giao thông căn cứ vào đó, tuân thủ, thực thi tránh những tai nạn cho mình và cho người khác.
Vậy đến đây phần nào chúng ta hiểu được luật lệ có làm cho chúng ta mất tự do hay không. Vấn đề ở chỗ thái độ và cách quan niệm của chúng ta về tự do và lề luật như thế nào.
“Đã có tự do tại sao lại buộc tôi phải tuân theo những luật luân lý do người khác ban hành.”
Trước hết chúng ta tìm hiểu câu nói này của một số người: họ công nhận có tự do, như vậy đồng nghĩa với việc họ cũng tuân giữ luật tự nhiên và luật lương tâm trong con người của họ. Bởi vì luật tự nhiên cũng là luật của sự tự do, đó chính là sự tự do bên trong tâm hồn con người. Chính bởi “tiếng nói” bên trong đó mà con người nhận biết những điều cần phải làm và những điều cần phải tránh, như vậy là đã đủ rồi. Tại sao lại bắt phải tuân giữ luật luân lý do người khác ban hành, tức là nhân luật. Vậy ta đặt ra một giả thiết, nếu chỉ tuân giữ luật tự nhiên và lương tâm đã đủ chưa? Trong Sách Sáng Thế chúng ta đọc thấy :  “Chúa là Thiên Chúa truyền lệnh cho người đàn ông như thế này : “Người được quyền ăn trái nơi tất cả các cây trong vườn. Thế nhưng ngươi chớ có ăn trái nơi cây biết thiện biết dữ, bởi vì ngày mà ngươi ăn thứ trái cây này, ngươi sẽ phải chết” (St 2, 16-17). Và điều đó đã xảy ra, con người đã lạm dụng tự do Thiên Chúa ban để chống lại Người, cũng có nghĩa con người lạm dụng tự do không giữ luật tự nhiên đã được ghi khác trong tâm hồn họ, và chính đàng sau sự bất tuân đó đã đưa con người vào cõi chết, từ đó con người trở nên mê muội. Thế nên họ cần phải có “luật” (theo nghĩa nguồn gốc của mọi luật xuất phát từ ý định của Thiên Chúa). Ở đây chúng ta không bàn nhiều đến vấn: (tội lỗi và lề luật, hay lề luật và ân sủng) mà chỉ muốn nói rằng sự sa ngã của con người làm cho lương tâm không còn tinh tuyền để có thể dùng luật tự nhiên một cách trong sáng nữa. Vậy con người cần được giáo dục để có thể phân biệt và nhận biết những điều phải làm những điều phải tránh. Hơn nữa, con người sinh ra không ai là một hòn đảo nhưng là một cuộc sống có cộng đoàn và trong lòng xã hội loài người. Từ đó những mối quan hệ phát triển: quan hệ trong gia đình, làng xóm, rộng hơn nữa là giữa quốc gia này với quốc gia khác; hay việc buôn bán, trao đổi….. “Luật tự nhiên lại không đề cập rõ ràng trong các đòi hỏi cá biệt cho mỗi người, hay không chế tài mức án phạt trong từng trường hợp. Chẳng hạn đâu là những đòi hỏi trong xã hội về công bằng, sự thật, quyền tác giả đối với phát minh. Nhân luật sẽ làm sáng tỏ những thắc mắc ấy. Vd. phạm tội này thì phải nhận hình phạt như thế nào, phạt tù hay phạt hành chính.” [3]. Con người không chỉ sống theo luật tự nhiên và lương tâm thôi mà còn phải có nhân luật. Nhân luật được lập ra để bảo đảm cuộc sống được hài hòa: nhân luật được làm ra vì lợi ích chung từng người trong xã hội, chúng “ban cho các cá nhân những cơ hội để học được những cách ứng xử rất có hy vọng và sẽ gặt được những thành công, cũng như tránh cho họ khỏi vất vả đi tìm những giải pháp tốt nhất. chúng cũng giúp cho các quan hệ giữa người với người được bền vững và tránh cho con người khỏi những băn khoăn thắc mắc về cách ứng xử của người khác. Nói cách khác chuẩn mực và định chế là những tài sản pháp lý căn bản mà con người phải dựa vào.” [4]. Nhân luật do những người có trách nhiệm trong xã hội thiết lập, họ cũng phải dựa vào luật tự nhiên được ghi khắc trong tâm hồn họ. Nghĩa là nếu không có luật tự nhiên ghi khắc trong tâm hồn họ thì con người chẳng thể đưa ra được luật lệ cho mình. Đặc biệt nhân luật chỉ phù hợp khi nó không đi ngược lại luật tự nhiên. “nhân luật đưa ra những truyền buộc hay những ngăn cấm thuộc công bình, hợp luật tự nhiên, với lương tâm và với lẽ phải. Truyền buộc làm lành lánh dữ. Nghĩa là phải tôn trọng mọi điều thuộc luật tự nhiên và luật Chúa ban ra. Không được quy định những điều ngược lại. luật tự nhiên là nguồn để mọi người căn cứ trên đó mà ban hành lề luật” [5]. Cần có nhân luật để xác định những tiêu chuẩn hướng dẫn hành động, nhất là khi có thể thi hành luật luân lý tự nhiên bằng nhiều cách khác nhau. Vì trật tự chúng ta phải chọn cách và buộc mọi người phải thi hành, chẳng hạn: luật giao thông, (lưu thông bên trái hay bên phải). “Nhân luât cần phải có để cưỡng bức con người tuân phục các đòi hỏi của trật tự luân lý, các đòi hỏi quan trọng của lợi ích chung. Chúng là những biện pháp chề tài cần thiết để giáo dục con người yếu đuối hay để bảo vệ con người khỏi những bất công của kẻ khác” [6]. Nhân luật cũng cần thiết để các thể chế của xã hội được tồn tại nó cũng quan trọng đối với hạnh phúc của từng gia đình và sự phát triển của các tiềm năng của từng thành viên sống trong xã hội. Nhìn chung nhằm duy trì trật tự, đảm bảo sự công bằng và quyền lợi cho các thành viên trong xã hội cũng như cộng đoàn. Bảo vệ quyền lợi và nhâm phẩm con người, củng cố nề tảng luân lý đạo đức gia đình và xã hội, duy trì và phát huy các giá trị tốt đẹp trong các nền văn hóa.
Tóm lại: không thể chỉ tuân giữ luật tự nhiên và luật lương tâm mà quên đi nhân luật cũng không kém phần quan trọng mang lại hữu ích cho con người. Nếu anh chỉ tuân giữ luật tự nhiên mà không tuân giữ nhân luật thì cũng giống như người luôn miệng nói yêu mến Chúa mà lại bỏ qua những điều có thể làm để mang lại lợi ích cho tha nhân, không yêu thương tha nhân, và đó là kẻ nói dối.
Thực trạng xã hội chúng ta hôm nay đang phải đối diện với “toàn cầu hóa” nơi có nhiều chủ thuyết lầm lạc, nơi có nhiều những biến động làm tha hóa con người. Chủ nghĩa cá nhân được đặt lên hàng đầu trong các mối quan hệ của cuộc sống. Con người đã và đang nhận thấy tự do là một quyền lợi thiêng liêng, là một khao khát từ sâu thẳm tâm hồn của họ. Thế nhưng, từ trong sâu thẳm của cõi lòng họ cũng cần phải tuân theo luật lệ tự nhiên và những luật lệ phát xuất từ bản chất của luật tự nhiên đó để mưu ích cho con người. Cái bi thảm của kiếp người là chúng ta đã nhân danh tự do để hành ác và biến sự tự do đích thực của những con cái Chúa thành thứ “tự do phóng túng”. Làm sao đừng rơi vào hai thái cực nghiệt ngã: nô lệ lề luật hay tự do phóng túng? Luật lệ, Hiến Pháp, mệnh lệnh và ngay cả ngày sabát cũng được dựng nên vì con người, chứ không phải ngược lại.

Tài liêu tham khảo:
1, Thần học luân lý tổng quát, tập 1.
2, Lm Phaolo Bùi đình Cao, Giáo trình Luân lý căn bản.
3, Lm Vinh sơn Đỗ Hoàng, Tự do và Lề luật, Nxb Phương đông.
4, Công đồng Vatican II.
5, Giáo lý Hội Thánh Công Giáo.
                                                                                      Giuse Nguyễn Văn Nghị


[1] Từ điển Công giáo phổ thông, Nxb Phương đông, Tr.36).
[2] Lm Vinh sơn Đỗ Hoàng, Tự do và Lề luật, Nxb Phương đông, 63
[3] Lm Phaolo Bùi đình Cao, Giáo trình Luân lý căn bản, 103
[4] Lm Phaolo Bùi đình Cao, Giáo trình Luân lý căn bản, 103.
[5] Lm Phaolo Bùi đình Cao, Giáo trình Luân lý căn bản, 101.
[6] Lm Phaolo Bùi đình Cao, Giáo trình Luân lý căn bản, 103