Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2016
Thứ Bảy, 5 tháng 11, 2016
NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LÝ TRONG GIÁO LUẬT 1983 VỀ LINH MỤC QUẢN XỨ VÀ PHÓ XỨ
Anton Công Chính
Trong bộ giáo luật 1983, quyển 2 nói về
dân Thiên Chúa, đã dành chương 6 để nói về các giáo xứ, các cha sở và các cha
phó. Trong đó có 34 điều luật nói về các cha sở và các cha phó. Từ điều 519-
544 nói về các cha sở và từ điều 545-552 nói về các cha phó. Có lẽ đây là một
trong những đề tài rất thiết thực, có những tranh luận rất vui nhộn đối với anh
em chủng sinh sau khi học xong trương trình.
A/ Cha sở
Trong 26 điều nói về các cha sở,
người viết xin được đúc kết trong 7 điểm chính: Khái niệm về cha sở. Điều kiện
để làm cha sở. Việc bổ nhiệm. Hạn kỳ. Sự tựu chức. Nhiệm vụ và sự mãn chức vụ.
1/ Khái niệm
Cha sở là chủ chăn riêng của giáo xứ đã
được giao phó cho ngài và ngài thi hành trách nhiệm mục vụ của cộng đoàn được ủy
thác cho ngài, dưới quyền Giám mục giáo phận, mà ngài đã được kêu gọi để chia sẻ
thừa tác vụ của Đức Ki-tô, ngõ hầu thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, thánh hóa và
lãnh đạo đối với cộng đoàn ấy [1]. Như vậy cha sở là chủ chăn thực sự của giáo xứ, giống như Chúa Giê-su
để chăn dắt đoàn chiên được trao phó. Ngoài Đức Giám mục Giáo phận và những người
cộng tác với ngài, ngài không phải lĩnh ý hay tường trình cho ai khác về công việc
mục vụ của mình trong giáo xứ được trao phó.
Vd: chính quyền, những người có ý chống đối giáo xứ.
2/ Điều kiện để làm cha sở
Điều kiện để làm cha sở phải là linh mục
và một thể nhân chứ không thể là một pháp nhân[2]. Đây là 2 điều kiện cốt yếu để được đặt làm cha sở. Bởi vì giáo xứ là một
cộng đồng Ki-tô hữu xây dựng trên bí tích Thánh Thể [3], chứ không phải là một đơn vị hành chánh hay xã hội. Giáo xứ là một
pháp nhân nên cần một thể nhân để quy tụ và hợp nhất trong tình yêu, giống như
Đức Ki-tô là đầu của Hội Thánh.
3/ Việc Bổ Nhiệm
Theo dòng lịch sử, các tông đồ là những
người được Chúa Giê-su chọn nối tiếp công cuộc rao giảng của Chúa. Sau này các
Giám mục là những người kế nhiệm các tông đồ, và qua việc đặt tay và lời nguyện
của Giám mục trong nghi thức phong chức linh mục đã nói lên rằng linh mục là cộng
sự viên của Giám mục để Giám mục chu toàn chức Tư Tế tông truyền. Chính vì thế,
trong trường hợp thông thường thì việc bổ nhiệm cha sở thuộc thẩm quyền của
Giám mục. Giám mục cũng có thể bổ nhiệm một linh mục tu sĩ làm cha sở của một
giáo xứ không thuộc “Dòng” đó, tuy nhiên phải có sự thỏa thuận và đồng ý của bề
trên thuộc “Dòng” đó. Nếu Giám mục trao một giáo xứ nào đó cho một Hội Dòng phụ
trách, thì bề trên của Dòng có quyền đề cử một linh mục lên cho Giám mục bổ nhiệm
vào giáo xứ đó [4].
Tuy nhiên, để việc bổ nhiệm cha sở được
chắc chắn thì theo điều luật 524 đòi hỏi, khi bổ nhiệm cha sở, Giám mục phải
tham khảo ý kiến của cha quản hạt, và nếu có thể được, ý kiến của vài linh mục
và giáo dân, ngõ hầu biết rõ những khả năng đức tính của người cần được chọn.
Chính vì thế theo giáo luật cũng không loại trừ việc khảo hạch như phương tiện
để thẩm định khả năng (đ. 521, 3).
Theo điều 521, người được bổ nhiệm
trước hết người đó phải là một linh mục, có đời sống trổi vượt về đạo lý lành mạnh
và hạnh kiểm đứng đắn, có lòng nhiệt thành với các linh hồn và những nhân đức
khác, hơn nữa còn phải có những đức tính mà luật phổ quát hoặc luật địa phương
đòi buộc để lãnh trách nhiệm mục vụ nơi giáo xứ.
4/ Hạn kì
Linh mục là cánh tay nối dài của Giám mục,
nên việc bổ nhiệm và hạn kì của linh mục đó cũng do Giám mục đó quyết định, lẽ
dĩ nhiên là có những người cộng tác với ngài trong công việc này. Nhưng trong
lúc bổ nhiệm thì có tính cách vô hạn định. Bởi vì nhà lập pháp ước mong cho chức
vụ cha sở có tính cách bền vững, vì nhiều lý do. Lý do đơn giản nhất là cần có
thời gian để có thể quyen việc và nhất là quyen người. Thực vậy, cha sở không
phải là một công chức được bổ nhiệm để lo việc hành chánh của giáo xứ, nhưng
tiên vàn ngài là một mục tử: lý tưởng của người mục tử là biết danh từng phần tử
của đoàn chiên được giao cho mình. Mặt khác, cha sở sẽ gắn bó hơn với giáo xứ một
khi biết rằng mình sẽ ở lại đây lâu dài, chứ không phải chỉ như người qua đường.
Mặt khác, Giám mục Giáo phận có thể bổ nhiệm cha sở cho một thời gian hữu hạn,
nên Hội Đồng Giám Mục đã chấp nhận điều đó qua một sắc lệnh [5].
Để linh mục đó coi sóc đoàn chiên được
trao phó cách hiệu quả , thì mỗi giáo xứ chỉ cần một linh mục. Tuy nhiên, vì
thiếu tư tế hoặc vì những hoàn cảnh khác, có thể ủy thác việc coi sóc nhiều
giáo xứ gần nhau cho cùng một cha sở. Trong cùng một giáo xứ, chỉ có một cha sở
mà thôi, hoặc một vị điều hành chiếu theo quy tắc của điều 517, 1. Mọi tập tục
trái ngược đều bị bãi bỏ và mọi đặc ân trái ngược đều bị thu hồi [6].
5/ Sự tựu chức
Theo điều 527 thì linh mục nào đã được tiến cử để thi hành trách nhiệm mục
vụ cho một giáo xứ, thì nhận lãnh trách nhiệm đó và buộc phải thi hành kể từ
khi nhận chức. Việc bổ nhiệm cha sở do chính Giám mục, thì việc chủ tọa sự nhận
chức có thể được tiến hành bởi Bản quyền sở tại hoặc một tư tế nào thay mặt.
Thường thường việc nhận chức nên được cử hành trong Thánh lễ. Diễn tiến nghi thức
nhận sở tại của cha sở như sau: Sau lời chào dẫn nhập, vị chủ tọa đọc văn thư bổ
nhiệm. Sau bài giảng, cha sở sẽ tuyên hứa chu toàn nhiệm vụ. Kế đó, vị chủ tọa
sẽ dẫn đưa cha sở đến những nơi sẽ thi hành phận sự, tỉ như ghế chủ sự trong
gian thánh, tòa giảng, giếng rửa tội, tòa giải tội và đặc biệt là mở cửa Nhà Tạm.
Ngoài ra cha sở còn phải tuyên xưng đức tin trước mặt Bản quyền sở tại hay đại
diện (đ 833,6) [7].
Ngoài ra, vì lý do đặc biệt thì Đấng bản quyền có thể miễn chuẩn việc nhận
chức của một cha nào đó tại sở tại và xê dịch ngày nhận sở tại. Nếu không vì lý
do nào đó mà cha được bổ nhiệm không chịu đến nhận nhiệm sở thì Đấng Bản Quyền
có thể tuyên bố giáo xứ đó khuyết vị.
6/ Nhiệm vụ của cha sở
Cha sở là cánh tay nối dài của Giám mục, nên nhiệm vụ của ngài nơi giáo
xứ giống như là Giám mục, bởi vì ngài có quyền giảng dạy, thánh hóa và cai quản,
lẽ tất nhiên vẫn là theo ý của Giám mục Giáo phận.
a/ Giảng dạy
Cha sở có bổn phận mang Lời Chúa không
những cho các tín hữu trong giáo xứ, nhưng còn cho hết thảy mọi người đang sống
trên lãnh thổ của giáo xứ, kể cả những người ngoại đạo, vô thần. Chính vì thế,
sau khi được bổ nhiệm và nhận nhiệm sở, cha sở buộc phải liệu sao để Lời Chúa
được rao truyền cách toàn vẹn cho những người đang sinh sống trong giáo xứ, vì
thế, ngài phải lo giảng dạy giáo dân về các chân lý đức tin, nhất là qua bài giảng
trong các ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc, cũng như qua việc đào tạo giáo
lý, ngài phải ủng hộ những công việc cổ động tinh thần Phúc Âm, cả những cộng
việc liên quan đến công bình xã hội [8]. Thật vậy, đối với xã hội ngày hôm nay thì việc mang Lời Chúa đến cho mọi
người bằng rất nhiều cách như: giảng thuyết, đối thoại, chuyện trò, diễn thuyết,
sách báo, bích chương, các phương tiện truyền thông xã hội.. nhưng nhà lập pháp
nhấn mạnh vào 2 vấn đề đó là giảng thuyết và giáo huấn [9]. Bởi vì, 2 vấn đề này không những chỉ giới hạn vào những chân lý đức
tin, nhưng còn bao gồm cả những công tác cổ động tinh thần phúc âm, kể cả trong
lãnh vực công bằng xã hội chiếu theo điều 768. Chính vì thế, nhiệm vụ giảng dạy
của Cha sở là hết sức quan trọng. Chính Chúa Giê-su xuống thế để giảng dậy cho
muôn dân biết mọi điều, hầu mời gọi tất cả mọi người hãy nghe và ăn năn sám hối
để trở về với tình yêu bao la của Thiên Chúa, thì linh mục ngày hôm này cũng được
mời gọi để mang Lời Chúa đến với hết thảy mọi người để mọi người nhận biết
Thiên Chúa và tìm về con đường ngay chính ở đời này và hưởng hạnh phúc mai sau.
b/ Thánh hóa
Bí tích Thánh Thể là trung tâm của
đời sống Giáo hội. Qua bí tích Thánh Thể, chúng ta được kết hợp mật thiết với
Chúa trong tình yêu, để nhớ lại hy tế của Chúa Giê-su trên Thập giá “không có
tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,9).
Chính vì thế, cha sở phải liệu sao để Thánh Thể trở thành trung tâm của việc tập
họp các tín hữu trong giáo xứ. Ngài phải lo cho các Ki-tô hữu được nuôi dưỡng
nhờ việc sốt sắng cử hành các bí tích và nhất là thường xuyên đến gần bí tích
Thánh Thể và bí tích sám hối. Cha sở phải thúc đẩy đời sống cầu nguyện, kể cả
việc cầu nguyện trong các gia đình, điều hành kỷ luật trong việc phụng tự [10]. Thực vậy, nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa và nhiệm vụ thánh hóa là hai chức
vụ cố hữu nhất của linh mục, và nó được hiện hữu là lý do hiện hữu của linh mục
trong giáo xứ [11].
Trong điều 530 nói đến bí tích rửa tội
thì từ xưa đến nay vẫn được coi như là quyền của cha sở nhưng thực sự đó không
phải là việc độc quyền của cha sở mà nó chỉ là những trách nhiệm mà các tín hữu
có quyền yêu sách nơi cha sở trước khi đi yêu cầu các linh mục khác. Đó là ý
nghĩa của việc sửa đổi từ ngữ giữa bộ luật cũ và bộ luật mới. Vì bộ luật 1917
nói đến những trách vụ dành riêng cho cha sở. Còn bộ luật hiện hành 1983 thì sửa
lại là được ủy thác đặc biệt cho cha sở:
Trong sách giáo lý và trong điều luật 861; 877-878 có nói rõ ràng: Trong
trường hợp thông thường thì cha sở là người ban bí tích rửa tội, nhưng trong
trường hợp khẩn cấp thì ai cũng có thể làm thừa tác viên của bí tích này. Chính
vì thế bổn phận của cha sở là phải dạy cho các tín hữu biết cách rửa tội cho
đúng.
-
Thông thường bí tích Thêm sức do Giám
mục cử hành nhưng trong trường hợp nguy tử thì linh mục được cử hành [12].
-
Cha sở ban của ăn đàng và bí tích Xức
Dầu Bệnh Nhân trong giáo xứ nhưng trong trường hợp khẩn cấp thì bất cứ tư tế
nào cũng có thể ban, cũng vậy việc trao Mình Thánh Chúa thuộc quyền của những người được trao phó
nhưng trong trường hợp khẩn cấp thì bất cứ tư tế nào cũng có thể trao [13].
-
Quyền dành riêng cho cha sở đó là chứng
hôn và làm phép trong lễ cưới, đây là quyền không ai được dụng chạm tới, ngoại
trừ cha sở ủy quyền cho ai đó thì người đó mới được làm. Bởi vì nếu cha sở
không ủy quyền mà làm việc này thì đôi hôn nhân đó không thành.
-
Cử hành nghi lễ an táng: Đây là quyền
dành cho mọi tư tế vì theo điều 1177 có nói: Thông thường, nghi lễ an táng của
tất cả mọi tín hữu đã qua đời phải được cử hành trong nhà thờ giáo xứ của người
ấy. Tuy nhiên, bất cứ tín hữu nào hoặc những người có nhiệm vụ an táng một tín
hữu quá cố đều được phép chọn một nhà thờ khác để cử hành nghi thức an táng với
sự chấp thuận của vị cai quản nhà thờ ấy, và sau khi đã được thông báo cho cha
sở riêng của người quá cố biết việc ấy.
-
Làm phép giếng Rửa tội trong mùa Phục
sinh, chủ sự các cuộc rước ngoài thánh đường, và việc ban phép lành trọng thể
ngoài thánh đường.
-
Sau khi nhận chức ở giáo xứ, cha sở
có nghĩa vụ phải dâng ý lễ cầu cho đoàn đân được trao phó cho ngài vào mỗi Chúa
Chật và lễ trọng buộc trong Giáo phận. Nếu mắc ngăn trở chính đáng không dâng ý
lễ như vậy được thì ngài phải nhờ một linh mục khác dâng ý lễ thay trong chính
các ngày đó, hoặc chính ngài phải dâng ý lễ bù lại vào các ngày khác. Cha sở
nào coi sóc nhiều giáo xứ, thì chỉ buộc dâng một ý lễ, vào những ngày được nói
đến ở triệt 1, để cầu cho tất cả đoàn chiên đã được trao phó cho ngài [14].
c/ Nhiệm vụ cai quản
Để việc cai quản giáo xứ diễn ra cách tốt
đẹp và mang lại hiểu quả cho đoàn chiên của mình thì cha sở phải xác định là
“người mang lấy mùi chiên”. Để mang được mùi chiên trong con người cha sở thì
cha sở phải lo liệu tìm hiểu đoàn chiên của mình, chia sẻ những vấn đề của họ
cũng như sửa dậy những lầm lỗi của họ. Ngài phải tỏ ra đức ái đặc biệt đối với
những thành phần đau ốm, nghèo khổ, bơ vơ và lạc lõng. Cha sở phải quan tâm đối
với mục vụ dành cho các gia đình [15].
Cha sở ngoài là người cha tinh thần,
ngài còn là người đại điện giáo xứ trong mọi công việc có tính cách pháp lý.
Chính vì thế, ngài phải lo liệu sao cho mọi công việc từ đối nội đến đối ngoại
được diễn ra cách tốt đẹp và đưa giáo xứ ngày một đi lên về mọi mặt. Vì thế,
ngài có toàn quyền mời và chọn những người cộng tác với ngài trong việc cai quản
và gìn giữ giáo xứ được Đấng Bản Quyền trao phó.
Nhằm đảm bảo cho việc chu toàn các nghĩa vụ mục tử trong giáo xứ thì cha
sở buộc phải ở trong nhà xứ gần nhà thờ. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc
biệt, vì một lý do chính đáng, Đấng Bản Quyền địa phương có thể cho phép cha sở
ở nơi khác, nhất là tại một nhà chung cho nhiều tư tế, miễn là phải liệu sao để
chu toàn những nhiệm vụ thuộc giáo xứ một cách thuận lợi và đều đặn [16]. Trừ khi có lý do nghiêm trọng, mỗi năm cha sở được phép vắng mặt khỏi
giáo xứ để đi nghỉ, tối đa là một tháng, liên tục hoặc gián đoạn. Những ngày
cha sở vắng mặt để dự tĩnh tâm mỗi năm một lần không tính vào thời gian đi nghỉ,
nhưng hễ vắng mặt khỏi giáo xứ quá một tuần lễ thì cha sở buộc phải báo cho Đấng
Bản Quyền địa phương biết điều đó, lúc đó Giám mục có quyền ấn định những quy tắc
cử một linh mục nào đó đến với những năng quyền cần thiết để việc coi sóc giáo
xứ được đảm bảo trong thời gian cha sở vắng mặt. Luật phổ quát cho phép cha sở
mỗi năm được đi nghỉ một tháng, không tính vào những ngày cha sở đi công việc mục
vụ của giáo xứ. Ở Việt nam thì chuyện đi nghỉ hè là một đặc ân dành cho thiểu số.
Còn tại Âu châu, tuy việc nghỉ hè được ghi vào luật lao động của quốc gia,
nhưng nhiều linh mục không thể hưởng được vì không kiếm ra người thay thế [17].
7/ Sự mãn nhiệm
-
Mệnh một: Đây là hình phạt rất cao
dành cho linh mục đó là trục xuất khỏi hàng giáo sĩ vì vi phạm những điều luật
đối với một giáo sĩ, mặc dù đã khuyên bảo trước. Nói theo ngôn ngữ thông thường
thì ngoài cái chết thể lý còn có cái chết cả pháp lý nữa.
-
Bãi chức: Đây là một biện pháp kỉ luật,
tuy đương sự có thể không có lỗi, ví dụ như vì đau yếu bệnh tật. Chính vì vậy,
sự bãi chức được đặt ra nhằm ích lợi của các linh hồn hơn là trừng phạt cha sở.
-
Thuyên chuyển: Sự thuyên chuyển có
thể là một sự thăng thưởng hoặc là một biện pháp kỉ luật.
-
Từ chức khi có lý do chính đáng:
Theo luật thì các cha sở khi tới tuổi 75 thì hãy đệ đơn từ chức lên Giám mục Giáo
phận. Nhưng sự từ chức chỉ có hiệu lực kể từ khi đơn được chấp thuận [19].
-
Hết nhiệm kỳ: Tức là trong bổ nhiệm
thư có ghi rõ là đến ngày đó là hết nhiệm kì thì đến ngày đó cha sở hết quyền
cai quản giáo xứ đó.
Ngoài ra khi giáo xứ không có cha sở, hoặc khi cha sở bị ngăn trở không
thể hành sử chức vụ thì Giám mục Giáo phận phải chỉ định sớm hết sức một tư tế
làm giám quản giáo xứ. Trong thời gian chờ đợi việc bổ nhiệm ấy thì việc cai quản
giáo xứ tạm thời được trao cho cha phó, nếu có nhiều cha phó thì trao cho vị
nào được bổ nhiệm trước hết, nếu không có cha phó thì trao cho cha sở nào đó mà
luật địa phương quy định [20].
B/ Cha phó
Khi
được bổ nhiệm và nhận nhiệm sở thì cha sở phải chu toàn các nhiệm vụ giảng dậy,
thánh hóa và cai quản với sự cộng tác của các linh mục và phó tế khác, cũng như
sự trợ giúp của giáo dân [21].
Theo bộ luật 1917 thì cha phó được phân biệt thành 4 loại: giám quản giáo xứ,
thay thế cha sở khi vắng mặt, giúp cha sở khi ngài bị bệnh, cộng sự viên của
cha sở. Còn bộ luật 1983 thì gọi cha phó là: phó cho cha quản xứ, phó cho giáo
xứ. Thông thường thì các cha phó được bổ nhiệm để giúp cho cha sở vì ngài không
thể cáng đáng hết các công việc của giáo xứ được [22]. Thế
nhưng, bộ giáo luật hiện hành còn dự trù việc đặt các cha phó chuyên trách một
công tác mục vụ đặc biệt của một hay nhiều giáo xứ khác nhau, tức là cha phó được
đặt lên nhằm đáp ứng nhu cầu của giáo xứ hơn là để giúp bản thân cha sở.
Thế
nhưng cha phó cũng phải được Đức giám mục giáo phận bổ nhiệm [23], chứ
không phải cha tổng đại diện nếu không được ủy quyền. Tuy nhiên, khi bổ nhiệm
cha phó, Đức giám mục nên bàn hỏi ý kiến với cha sở mà cha phó được đề cử tới
và cả với cha quản hạt nữa. Nếu giáo xứ được trao cho một dòng tu đảm trách thì
bề trên của dòng để cử cha phó lên Đức giám mục để ngài xét và ra bổ nhiệm thư.
Cha
phó là cộng sự viên của cha sở, để san sẻ mọi nỗi lo âu với cha sở, đồng tâm nhất
trí để thi hành nhiệm vụ mục vụ trong giáo xứ [24].
Chính vì thế, cha sở và cha phó cùng hợp lực với nhau để sự liệu mục vụ cho
giáo xứ mà họ đồng lãnh trách nhiệm [25]. Cha
phó sau khi được bổ nhiệm và nhận nhiệm vụ thì cha phó buộc cư ngụ trong giáo xứ,
chứ không buộc phải sống tại nhà xứ [26]. Vai
trò của cha phó trở nên quan trong khi cha sở đi vắng, nhất là khi ngài bị ngăn
trở không thể hành sử chức vụ hoặc chức vụ khuyết vị. Nói cách chung nhất, cha
sở có toàn quyền quyết định trên cha phó hoặc giữa các cha phó với nhau trong
những công việc chung của giáo xứ.
C/ Một vài nhận xét thực tế giữa cha sở và cha
phó
Cha
sở và cha phó là một trong những đề tài được bàn luận rất sôi nổi. Để nhận xét
thực trạng này cách khách quan thì người viết chỉ có cái nhìn về thực trạng giữa
cha sở và cha phó đối với Giáo phận Thanh hóa. Ngoài những tính cách cá nhân và
những câu chuyện nhỏ mọn thì dường như các cha sở đối với các cha phó của Giáo
phận Thanh hóa đang diễn ra đúng theo những gì luật quy định. Chính những hình ảnh
này đã mang lại cho giáo dân được nhiều ơn thánh và khích lệ nhau trong Tình Yêu
như Đức Ki-tô yêu thương nhân loại. Chính sự đoàn kết giữa hai cha đã làm cho Giáo
xứ các ngài đang coi sóc được phát triển cả về tinh thần lẫn vật chất. Đời sống
các ngài là mẫu gương để các gia đình trong giáo xứ nói theo, hầu mang lại niềm
vui, tiếng cười và tăng thêm sự đoàn kết trong cộng đoàn Giáo xứ. Đúng như lời
Kinh Thánh nói “cứ dấu này người ta sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy là anh
em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
[1]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 519.
[2]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 520-221.
[3]
Phan Tân Thành, giái thích
giáo luật, tập 2, các tín hữu, cơ cấu phẩm trật của giáo hội, Tr 303.
[4]
Phan Tân Thành, giái thích
giáo luật, tập 2, các tín hữu, cơ cấu phẩm trật của giáo hội, Tr 304.
[5]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 522.
[6]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 526, 1.
[7]
Phan Tân Thành, giái thích
giáo luật, tập 2, các tín hữu, cơ cấu phẩm trật của giáo hội, Tr 308.
[8]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 528,1.
[9]
Phan Tân Thành, giái thích
giáo luật, tập 2, các tín hữu, cơ cấu phẩm trật của giáo hội, Tr 309.
[10]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 528, 2.
[11]
Phan Tân Thành, giái thích
giáo luật, tập 2, các tín hữu, cơ cấu phẩm trật của giáo hội, Tr 312.
[12]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 883,3.
[14]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 534.
[15]
Phan Tân Thành, giái thích
giáo luật, tập 2, các tín hữu, cơ cấu phẩm trật của giáo hội, Tr 317.
[17]
Phan Tân Thành, giái thích
giáo luật, tập 2, các tín hữu, cơ cấu phẩm trật của giáo hội, Tr 320.
[18]
Phan Tân Thành, giái thích
giáo luật, tập 2, các tín hữu, cơ cấu phẩm trật của giáo hội, Tr 321.
[19]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 538,3.
[20]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 539.
[21]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 519.
[22]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 545.
[23]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 547.
[24]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 545,1
[25]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 548,3.
[26]
Bộ giáo luật 1983, Hội Đồng
Giám mục Việt nam, Nxb tôn giáo, Điều 533,1 và 550,1-2.
MỘT CHÚT SUY TƯ VỀ GIU-DA (Kẻ phản bội)
Anton Công Chính
Khi nói đến Giu-đa ta liên tưởng ngay đến người môn đệ bán Chúa Giê-su với
30 đồng bạc, chắc có rất nhiều người không ưa, và đôi khi còn có những lời chửi
rủa, thóa mạ đối với Giu-da. Điều này cũng rất dễ hiểu bởi vì trong suy nghĩ của
mỗi người đều căm ghét những con người “ăn cháo đá bát”. Giu-đa đi theo Chúa
Giê-su xuất chặng đường dài mà không tích góp được những lời hay lẽ phải mà cuối
cùng đã phụ tình bạc nghĩa bán Thầy cho những người tìm cách giết Người chỉ với
30 đồng bạc. Chẳng lẽ con người của Giu-đa bước theo Thầy chỉ đáng giá với 30 đồng
bạc thôi sao?. Khi suy nghĩ như thế thì ai mà không giận hờn, căm ghét, và đối
khi lòng căm ghét dâng lên thì chắc cũng mượn câu nói mà Chúa Giê-su nói chung
với các môn đệ trong bữa tiệc ly “khốn cho kẻ nào nộp Con Người: Thà nó đừng
sinh ra thì hơn” (Mt 26,24). Qủa thực, hành động bán Chúa của Giu-đa không thể
nào chấp nhận được. Nhưng qua đề tài này, người viết cũng muốn có chút cảm tưởng
và đôi chút cảm thông cho con người Giu-đa, mặc dù những lời lẽ này không thể
nào đổi “đen thành trắng” đối với hành động của Giu-đa nhưng như là một chút
thương cảm và đôi khi là bài học cho những suy nghĩ của người viết trên đường
bước theo Chúa. Một cách nào đó, trong cuộc đời đôi khi ta cũng “bán Chúa” để
hưởng tư lợi cho riêng bản thân mình.
Trước tiên, ta nhìn nhận với
nhau rằng, Giu-đa trước khi được Chúa tuyển chọn để gia nhập vào nhóm 12 là một
con người tốt lành. Chắc có lẽ Giu-đa cũng đã được nghe biết về Chúa Giê-su qua
Gio-an tẩy giả rao giảng. Trong xuất cuộc hành trình rao giảng của Chúa Giê-su,
Người luôn mời gọi những con người đặc biệt bước theo Người, để nghe và chứng
kiến những việc Ngài làm như là bảo chứng tình yêu mà Người muốn truyền lại cho
các ông sau này. Chắc có lẽ những người bước theo Chúa Giê-su rất đông đảo nên
Ngài muốn chọn một số người trong những con người này để bước theo người cách đặc
biệt để Ngài trao cho sứ vụ sau này. Chính vì vậy, Ngài đã lên núi để cầu nguyện
với Chúa Cha xuất một đêm dài “Đức Giê-su đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức
suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa” (Lc 6,12). Đây quả là một sự chọn lựa đầy
căng thẳng và mang tính quyết định sau này, không biết nên chọn ai trong số những
con người này đây, bởi vì người này được cái này thì lại mất cái kia. Có những
người nói, trong suất đêm dài Ngài đã cầu nguyện để chọn Giu-đa hay không chọn
Giu-đa, bởi vì Người biết chính con người này sau này sẽ giơ gót đạp mình.
Chính vì vậy, trong suất đêm, Chúa Giê-su đã cầu nguyện với Thiên Chúa Cha và
dâng những con người này cho Chúa Cha để xin Ngài giúp sức. Chính vì vây, khi
trời vừa sáng, Người đã xuống núi và kêu tất cả những người bước theo Người lại
để chọn ra những con người đặc biệt để đi theo Người “Đến sáng, Người kêu các
môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là Tông Đồ” (Lc 6,13). Qủa thật, những
con người được Chúa kêu tên đã rất vui mừng vì từ nay mình sẽ đi theo Thầy, được
chứng kiến những việc Chúa Giê-su làm. Trong số 12 người được Chúa kêu tên chỉ
có hai người thêm đàng sau tên của mình một biệt danh khác, đó là Phê-rô và
Giu-đa “Đó là ông Si-môn mà Người gọi là Phê-rô, Giu-đa It-ca-ri-ôt, người đã
trở thành kẻ phản bội” (Lc 6,14.16).
Để cho cộng đoàn được duy
trì và phát triển, đặc biệt không để cho trường hợp “cha chung không ai khóc”
thì trong cộng đoàn phải được chia ra mỗi người đảm nhận một công việc. Trong cộng
đoàn mà Chúa Giê-su tuyển chọn thì Ngài đã giao cho Giu-đa nhiệm vụ hết sức
quan trọng, đó là người làm quản lý, đây là một công việc liên quan đến việc sống
còn của cộng đoàn. Phải chăng Chúa Giê-su đã rất tin tưởng Giu-đa khi giao cho
ông nhiệm vụ này. Khi Chúa Giê-su giao cho ông công việc này thì ngầm ý nhắn với
ông rằng từ nay ông sẽ phải làm cách nào đó để duy trì và bảo đảm sự sống cho Thầy
cũng như cho các anh em trong cộng đoàn này. Giu-đa đã ý thức được sứ vụ cao trọng
này nên ông đã không một chút lơ là trong chuyện này.
Chặng đường bước theo Thầy
với nhiệm vụ được trao phó, Giu-đa được chứng kiến những lần Chúa làm phép lạ như
chữa cho những người bệnh được khỏi, cho kẻ chết sống lại. Nhưng cũng không ít
những lần Giu-đa được chứng kiến những người không ưa Thầy, tìm cách để lăng nhục
và không cho Thầy giảng dạy, những lần đó Thầy đều tìm cách lẩn trốn, không để
cho những người chống đối bắt mình “Nhưng Người băng qua giữa họ mà đi” (Lc
4,30), “Họ liền lượm đá để ném Người. Nhưng Đức Giê-su lánh đi và ra khỏi Đền
Thờ” (Ga 8,59), “Bấy giờ họ lại tìm cách
bắt Người, nhưng Người đã thoát khỏi tay họ” (Ga 20,39), Qua những đoạn Kinh
Thánh trên cho ta thấy, giờ của Người chưa tới thì không ai có thể bắt Người,
nhưng đối với Giu-đa thì cho rằng Thầy mình là một Người rất tài giỏi, ngoài việc
giảng dạy và chữa bệnh cho người khác, Thầy còn là một người có “phép thuật” gì
đó mà mọi người không thể nào bắt được Ngài. Chắc có lẽ, Giu-đa đã nuôi dưỡng ý
tưởng này để một lúc nào đó sẽ phải dùng đến.
Thật vậy, việc
gì đến cũng sẽ đến, Giu-đa nhận thấy trong thời gian gần đây, khắp mọi nơi, đâu
đâu người ta cũng lùng bắt Thầy. Người nào phát hiện ra Thầy mà báo cho quan
thì sẽ được một mức hoa hồng xứng đáng “Còn các Thượng tế và người Pha-ri-sêu
thì ra lệnh: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt” (Ga 11,57).
Giu-đa nghĩ đến ngày lễ vượt qua của người Do Thái sắp đến, mà hiện tại trong
ngân khoản của mình không còn một đồng xu dính túi thì làm sao có thể mua được
thức ăn để cho Thầy và anh em cùng ăn trong ngày lễ này đây. Trong tình thế cấp
bách, Giu-đa đã vắt tay lên trán để suy nghĩ xem tìm đâu cho ra tiền để dọn bữa
ăn này đây, nếu không Thầy và các anh em sẽ trách mình là thiếu trách nhiệm.
Trong một thoáng suy nghĩ, Giu-đa nhận ra Thầy rất tài giỏi thì ai mà có thể bắt
Thầy được và nếu có bắt thì Thầy hoàn toàn thoát ra giống như những lần mình đã
chứng kiến. Từ suy nghĩ đến hành động, Giu-đa đã mượn tiền để dọn một bữa tiệc
hoành tráng để ăn mừng “Lễ Vượt Qua” của người Do Thái, sau đó tìm cách đến gặp
Thượng tế để báo tin và nhận được hoa hồng để chi trả cho bữa ăn vừa xong “các
ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?. Họ liền ấn định cho ba mươi
đồng bạc” (Mt 26,14-25). Công việc của Giu-đa diễn ra đúng theo ý của mình, một
bữa tiệc hoành tráng được dọn ra cho Thầy và các anh em của mình. Trong bữa tiệc
có lẽ Giu-đa nghĩ rằng, Thầy đã rất khen ngợi với hành động của mình vì trong bữa
ăn chỉ có Giu-đa được chấm chung một đĩa với Thầy, một cử chỉ mà không ai trong
số những anh em mình có được “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ
nộp Thầy” (Mt 26,23). Khổ thay cho Giu-đa, theo Thầy suất chừng đó năm trời
nhưng không hiểu được những lời Thầy rao giảng mà chỉ nghĩ đến con người xác phạm
nên trong bữa ăn đã không hiểu được ý của Thầy nói. Ngay lập tức Giu-đa đứng dậy
khỏi bàn ăn để đến báo tin cho vị Thượng tế và nhận được số tiền để trả nợ cho
bữa ăn. Điều không may cho Giu-đa vì đã không diễn ra như ý nghĩ của mình, tưởng
Thầy sẽ thoát ra khỏi vòng vây cách dễ đàng nhưng ai ngờ Thầy đã bị bắt và đánh
đòn cách nhừ tử “Họ bắt Đức Giê-su, rồi điệu đến Thượng tế Cai-pha” (Mt 26,57).
Giu-đa thấy như thế thì liền chạy đến vị Thượng tế để trả lại số tiền mà ông đã
nhận, nhằm muốn vị Thượng tế hãy thả Thầy ra “Bấy giờ, Giu-đa, kẻ nộp Người, thấy
Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem 30 đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ
mục” (Mt 27,3), nhưng Giu-đa đã hoàn toàn vô vọng vì thượng tế không nhận số tiền
của ông và đồng nghĩa với việc thượng tế sẽ không thả Thầy “Can gì đến chúng
tôi. Mặc Kê anh” (Mt 27,4) . Giu-đa đã thất vọng đến tột cùng, không còn lời
nào để nói với các thượng tế. Mặc dù số tiền các thượng tế không nhận, và Giu-đa
ý thức được rằng chính số tiền đang cầm trên tay là cái kết cho số phận của Thầy
nên Giu-đa đã ném số tiền đó lại cho các thượng tế và ra đi thắt cổ “Hắn ném số
bạc vào Đền Thờ, lui về rồi đi thắt cổ” (Mt 27,5). Trong hành động trả lại số
tiền của Giu-đa cho các thượng tế, ta có thể nói đây là một sự ăn năn của
Giu-đa và có thể nói hành động bán Thầy với 30 đồng bạc tự bản chất trong thâm
tâm Giu-đa không hề mong muốn. Trong tình huống như thế này, nếu như Giu-đa
sáng suất hơn thì chắc có lẽ Giu-đa sẽ nhận ra được ánh sáng để thực tâm trở về
với Chúa và ra mặt để bảo vệ Thầy và làm chứng cho sự thật thì chắc có lẽ không
có kết cục như ta thấy. Thực sự mà nói người ngoài cuộc thì có thể thấy được vấn
đề nhưng người trong cuộc thì thật sự khó lòng thấy được vấn đề mà có hướng đi
sáng suất hơn. Chính vì thế cái chết của Giu-đa lúc này cũng là điều tất yếu
cho việc làm của mình.
Qua tìm hiểu và cảm thông cho số phận của Giu-đa thì
cũng một phần nào đó giúp người viết nghĩ lại bản thân và đặt ra những câu hỏi.
Hành động bán Chúa của Giu-đa khi xưa có khi nào trong cuộc đời bước theo chân
Chúa ta cũng đang bán Chúa cách nào đó không ?. Chắc có lẽ có, bởi vì có những
lúc ta không sống đúng với chức phận làm con Chúa và có những lúc ta không thắng
vượt trước cám dỗ của ma quỷ mà chiều theo nó, đó chính là lúc ta bán Chúa với
giá rẻ mạt nhất.
NHỮNG PHẢN BIỆN CỦA AUGUSTINO VỀ QUAN ĐIỂM CỦA PHELAGIO VỀ TỘI NGUYÊN TỔ
Anton Công Chính
Con người luôn là đề tài
nghiên cứu của các nhà khoa học nói chung và các nhà triết học nói riêng. Trải
qua nhiều thế kỉ, đề tài này chưa có câu trả lời thỏa đáng cho ước nguyện tìm về
nguồn gốc của con người. Qủa thật, tất cả những chứng cứ mà theo suy luận của
con người đưa ra đều không thỏa đáng cho những mong muốn của họ và cuối cùng
cũng chỉ đưa ra một suy luận cách chung nhất và cũng xuay quanh ý tưởng có một
ai đó cấu tạo nến vũ trụ và con người này. Những tìm hiểu này cũng đang bỏ ngỏ
để chờ một câu trả lời từ các nhà thần học mang lại và bổ trợ cho những suy tư
của các nhà triết học. Các cuộc nghiên cứu và cuộc tranh luận về con người
không chỉ dừng lại ở vẻ bề ngoài của bản thể người nhưng còn đi xa hơn nữa
trong nội tại bản thể con người. Đó chính là những điều thiêng liêng ẩn dấu bên
trong con người, một trong những điểm lớn này đó chính là nguyên tội trong con
người. Chính vì thế, Giáo hội Chúa luân phải đương đầu với những trào lưu tư tưởng
không những ngoài Giáo hội mà ngay cả ở bên trong Giáo hội. Giáo hội tưởng chừng
như đã bị vùi lấp trước những làn sóng tư tưởng cả trong lẫn ngoài nhưng Thiên
Chúa quan phòng đã không bỏ rơi Giáo hội mà luân gửi đến những con người đám đứng
lên để bảo vệ Giáo hội qua các trào lưu tư tưởng trong các thời đại. Các trào
lưu tư tưởng không những không vui lấp được Giáo hội mà còn là cơ hội và bàn đạp
để cho Giáo hội vươn lên và càng khẳng định sức mạnh của của mình hơn. Qủa thật
“ Thiên chúa luôn viết trên những đường thẳng con ” (). Thật vậy, trước tư tưởng
của Phelagio về nguyên tội và những lời phản biện của Thánh Augustino về nguyên
tội như là một lần cho tất cả để ta có một cách nhìn và một lối suy nghĩ chắc
chắn hơn về niềm tin có nơi mình. Để hiểu về quan điểm của Phelagio về nguyên tội
và quan điểm của Thánh Augustino về nguyên tội như thế nào ta sẽ tìm hiểu sâu
hơn về từng quan điểm. Qua đó thấy được những điểm sai trái của Phelagio khi
suy luận về nguyên tội và những lời phản biện của Thánh Augustino về quan điểm
này.
1/ Quan niệm nguyên tội của Phelagio
Trong quan điểm của Pelagio
về tội nguyện tội mà Adam, Evà phạm tội không bị ảnh hưởng về sau. Tội này chỉ
dành riêng cho Adam và Evà chứ không ảnh hưởng gì tới con cháu sau này. Chính
vì thế, Ông đã đẩy quan điểm này lên một cái nhìn mới, đó chính là cái chết mà
Adam được tạo dựng từ bản tính phải chết, chứ không phải chết do tội. Tội của
Adam không ảnh hưởng trên tất cả mọi người. Vì thế, trẻ nhỏ được sinh ra trong
tình trạng như Adam trước khi phạm tội và cái chết không phải do hậu quả của tội
Adam trên bất cứ người nào. Mỗi người đều có khả năng không phạm tội, khả năng
này luôn hiện hữu, bởi vì người ta có khả năng đạt tới đời sống vĩnh cửu nhờ việc
tuân giữ Lề Luật, cũng như Luật Tin Mừng. Trong thể giới luân có những con người
hoàn hảo, tức là những con người không hề phạm tội [1]. Dừng như Pêlagio đã tách
biệt lập tội của Adam, Eva ra khỏi thế hệ con cháu của họ. Chính Adam, Eva đã
phạm tôi thì chính họ phải chịu lấy những hình phạt của Thiên Chúa dành cho họ,
còn những người được sinh ra về sau không ở trong tình trạng của Adam, Eva đã
phạm tội mà ở trong tình trạng trước khi Adam, Evà phạm tội. Từ đó, Pêlagio đã
phản đối và không tin nhận có bí tích rửa tội. Trẻ em được sinh ra ở trong tình
trạng tinh tuyền, không vướng mắc gì đến tội của Adam, Eva xưa. Pelagio đã cho
rằng tự bản chất con người khi sinh ra đã có khả năng phạm tội và khả năng này
không ở đâu khác mà luôn hiện hữu ở ngay chính trong con người của đứa trẻ đó.
Nên rửa tội cho trẻ sơ sinh là không đúng vì đứa trẻ này khi sinh ra chưa có tội
gì thì làm sao có thể rửa tội cho họ, việc rửa tội này phải để cho thời gian đứa
trẻ đó lớn lên và có ý thức về tội thì mới rửa tội cho đứa trẻ đó, chính lúc
này đứa trẻ mới cần được ơn tha thứ từ Thiên Chúa. Thực vậy, trào lưu Pêlagiô
có tham vọng thức tỉnh, nhờ sức mạnh của ý chí tự do, những đức tính bị ru ngủ
bởi các thói quen gắn liền với tội lỗi. Bởi vì, trong con người luon có sự hiện
hữu của sự tội, nên tỗi lỗi là con người phạm chỉ là thói quen đã có tự bản chất
con người chứ không phải truyền từ ai cả. Theo Phái Pelagio, chính bởi thói
quen này, khi bắt trước tội của Adam truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, và
nó là đủ để giải thích tình trạng tội lỗi của nhiều người chứ không phải là tất
cả. Vì thế họ đã loại trừ sự lan truyền của Tội Tổ tông. Qua đó cho ta thấy, sự
hiểu biết của phái Pelagio về Ki-tô giáo là một sự chọn lựa của ý chí tự do mà
các đòi hỏi của Ki-tô giáo, hàm chứa đựng trong Thánh Kinh và được đón nhận như
một tổng hợp các huấn lệnh để tuân giữ, phải trở thành gia sản của người Ki-tô
hữu [2]. Trong cái nhìn và lối suy
nghĩ của Pelagio thì trẻ em khi được sinh ra hoàn toàn trong trắng, không vương
mắc bất cứ một thứ tội nào, nên không cần đến ân sủng của Thiên Chúa lúc này.
Pelagio cũng suy nghĩ cách chắc chắn đứa trẻ đó một ngày nào đó sẽ phạm tội, bởi
vì sự tội luôn hiên hữu trong con người đứa trẻ nên sơm hay muộn họ cũng sẽ phạm
tội và lúc này mới cần đến ân sủng của Thiên Chúa ra tay cứu giúp. Còn tội của
Adam, Eva đã phạm trước kia thì tự họ phải chịu lấy những hình phạt và khi họ
chết đi thì tội đó cũng đi theo họ và trở về với lòng đất.
Với Pelagio,
tương quan giữa Thiên Chúa và con người trước hết là tương quan giữa một Thiên
Chúa công bình và một con người tự do. Một Thiên Chúa công bình nghĩa là Ngài
thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ. Ngài không đòi hỏi quá đáng và bất khả thi đối với
con người. Với những điều này, con người chỉ cần thực hiện những Giới Luật mà
Thiên Chúa ban là được. Còn đối với nguyên tội, thì Pelagio cho rằng Thiên Chúa
không thể chấp nhận sự lưu truyền Nguyên tội, một nguyên tội truyền giao từ người
này qua người khác, vì như thế sẽ trái với luân lý của Ezekiel (Ch 18). Chính
vì thế trong tương quan giữa Thiên Chúa và con người, mỗi người khởi sự từ đầu
nghĩa là mỗi người là Adam cho chính mình. Đối với con người tự do, thì Pelagio
cho rằng con người được “giải phóng” khỏi Thiên Chúa, trưởng thành trước Thiên
Chúa. Nếu “khả năng” đến từ Thiên Chúa, thì “ước muốn” và khả năng hoàn thiện
phụ thuộc vào con người. Pelagio cho rằng tự do của con người trong lịch sử
không thay đổi. Con người có thể làm điều thiện và tránh điều ác. Từ đó,
Pelagio nghĩ đến con người có khả năng không phạm tội mà không cần sự trợ giúp
nào từ ơn trên và nếu con người phạm tội thì họ có thể tự sám hối. Qua đó, cho
ta thấy Pelagio đã hoàn toàn phủ nhận tội nguyên tổ và cũng phủ nhận và không cần
đến ân sủng của Thiên Chúa trong đời sống con người.
2/ Quan điểm nguyên tội của Augustino
Trong lúc Giáo hội đang phải
đương đầu với những tử tưởng sai lạc của Pelagio thì Thiên Chúa đã gửi đến cho
Giáo hội một con người rất mạnh mẽ, đứng lên để phản biện lại các tư tưởng sai
lạc của Pelagio về nguyên tội. Dường như, Augustino đã trình bày các luận cứ của
mình dưới ánh sáng của các bản văn Kinh Thánh. Từ đó, Augustino đã đưa ra chứng
cứ “nếu Đức Ki-to đến để cứu đội mọi người, có nghĩa là mọi người đã phạm tội” [3] để phản biện lạiđã Phản biện
lại Pelagio, khi ông phủ nhận nguyên tội và không cần đến sự chữa lành của
Thiên Chúa đối với trẻ sơ sinh hay nói cách khác không cần bí tích rửa tội cho
trẻ nhỏ, vì trẻ nhỏ khi sinh ra hoàn toàn tinh tuyền. Augustino giải thích quan
niệm nhân học của mình về bản tính tự nhiên bị hư hoại. Con người không còn ở
trong điều kiện của tình trạng tự nhiên như khi được Thiên Chúa tạo dựng.
Augustino cũng phản biện lại
quan niệm của Pelagio, khi ông nói rằng chỉ có khả năng thì thuộc về Thiên
Chúa, còn ước muốn và hành động thì phụ thuộc vào từng con người. Quan niệm của
Augustino về điều này như sau: Nếu Pelagio chấp nhận với chúng ta rằng những gì
chúng ta được Thiên Chúa giúp đỡ, không chỉ khả năng của con người, nhưng cả ý
chí và hành động, tức là những gì làm cho ước muốn và hành động phù hợp với điều
thiện, và như tôi đã nói, nếu Pelagio chấp nhận rằng chính cả ý chí và hành động
cũng được Thiên Chúa trợ giúp này, chúng ta không có ý chí và hành động phù hợp
với điều kiện, và chính trong ân sủng của Thiên Chúa, thông qua Đức Giê-su
Ki-tô Chúa chúng ta làm cho chúng ta nên công chính qua sự công chính của Ngài,
chứ không phải của chúng ta, nói đúng hơn, sự công chính đích thực của chúng ta
đến từ Ngài. Như vậy, tôi nghĩ rằng, không có sự tranh tụng giữa chúng ta, vì
chúng ta luôn được ân sủng Thiên Chúa trợ giúp [4]. Đối với bản tính tự nhiện
theo quan điểm của Pelagio thì Augustino đã áp dụng cho cả hôn phối để phản biện
lại tư tưởng của Pelagio. Augustino nói rằng: với việc sinh sản, hôn nhân truyền
giao bản tính tự nhiên, đó là điều tốt, còn những khuyết điểm của bản tính tự
nhiên, là một sự dữ: bản tính này cũng có người tạo nên nó, bản tính này cần Đấng
Cứu Chuộc [5].
[1]
Bản dịch của Lm Nguyễn Tiến
Dưng. AA. Giáo trình Nguyên tội ân sủng và sự công chính hóa. Tr 16.
[2]
Bản dịch của Lm Nguyễn Tiến
Dưng. AA. Giáo trình Nguyên tội ân sủng và sự công chính hóa. Tr 17.
[3]
Bản dịch của Lm Nguyễn Tiến
Dưng. AA. Giáo trình Nguyên tội ân sủng và sự công chính hóa. Tr 25.
[4]
Bản dịch của Lm Nguyễn Tiến
Dưng. AA. Giáo trình Nguyên tội ân sủng và sự công chính hóa. Tr 27.
[5]
Bản dịch của Lm Nguyễn Tiến
Dưng. AA. Giáo trình Nguyên tội ân sủng và sự công chính hóa. Tr 28.
MẪU GƯƠNG SỐNG TÌNH HUYNH ĐỆ GIỮA CHÚA GIÊ-SU VÀ CÁC MÔN ĐỆ
Anton Công
Chính
“Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro
Một mai người sẽ trở về bụi tro” (Thánh ca)
Người viết không có ý phân tích bài hát này
nhưng muốn mượn bài hát này để nói lên kiếp sống con người trên dương thế. Quả
vậy, con người ai cũng một lần sinh ra và một lần chết đi, đó là quy luật của tự
nhiên và cũng là hình phạt của Thiên Chúa khi tổ tông phạm tội. Con người có mặt
trên trái đất này không ai giống ai, mỗi người có một đặc điểm và một cá tính
riêng, nhưng có chung một số phận là đều phải chết. Như vậy, quãng thời gian con người có mặt trên trái đất này không phải
là vĩnh viễn nhưng là quãng thời gian con người được sống chung với nhau, chia
sẻ với nhau và cùng nhau tìm kiếm hạnh phúc “Nước Trời”. Để từ bỏ một ý riêng
và tạo nên một ý chung là cả một sự hy sinh lớn đối với xã hội như hiện nay. Mỗi
người có một quan điểm sống, mỗi người có một cách nhìn vấn đề, mỗi người có một
khả năng, mà hợp nhất với nhau trong một vấn đề thì quả thật là điều khó khăn,
nhưng Chúa Giê-su luôn mời gọi mỗi người hãy mở lòng ra để đón nhận tất cả những
người xung quanh, những người bé nhỏ nhất và ngay cả kẻ thù của ta “hãy yêu kẻ
thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em” (Lc 6,27). Chúa Giê-su trong cuộc đời dương
thế, Ngài đã thực hiện trọn vẹn điều này, Ngài đã hy sinh cả mạng sống của mình
cho người khác (x.Ga 9,13). Vì thế, Giáo hội phản bác mọi hình thức kỳ thị hoặc
đàn áp con người do phân biệt chủng tộc, màu da, giai cấp hay tôn giáo, vì đây
là thái độ đi ngược lại tinh thần của Ki-tô giáo [1]. Trong cuộc đời rao giảng,
Chúa Giê-su đã từ bỏ ý riêng để sống cùng các môn đệ, cùng chia sẻ với các môn
đệ, Ngài đã sống trọn tình huynh đệ với các môn đệ. Chính Ngài đã nói: Anh em
là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền. Thầy không gọi
anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em
là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết (Ga 9,14-15). Ngài
đã từ bỏ tất cả ý riêng để kêu gọi các ông đi theo người, sống với Người. Quả thật,
Chúa đã nâng con người lên ngang bằng Thiên Chúa để cùng chia sẻ sứ vụ cao cả của
Người “Con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận
tâm? Chúa cho con người chẳng thua kém thần linh là mấy, ban vinh quang danh dự
làm mũ triều thiên, cho làm chủ công trình tay Chúa sáng tạo, đặt muôn loài
muôn sự dưới chân” (Tv 9,5-7). Để thấy được mối tình sâu đậm Chúa Giê-su dành
cho các môn đệ và ngược lại, người viết sẽ đi vào chi tiết của nội dung để thấy
được mối tình tuyệt đẹp giữa Chúa Giê-su và các môn đệ trên suốt cả hành trình
rao giảng cũng như sứ vụ cao cả mà Chúa muốn các ông thực hiện.
1/ Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giê-su và các
môn đệ
Người ta thường nói “khởi sự vạn
đầu nan hay đầu xuôi đuôi lọt”. Để áp dụng câu nói này đối với cuộc đời rao giảng
của Chúa Giê-su có lẽ cũng phù hợp, bởi vì Chúa Giê-su bắt đầu cuộc đời rao giảng
về nước trời “Thời kì đã mãn, và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy
sám hối và tin vào Tin mừng” (Mc1,15), niềm vui này đã được nhân lên khi kêu gọi
các môn đệ đầu tiên đi theo người và ngay lập tức các ông đã đáp lại và bước đi
theo Người “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mc 1,18), “và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê ở lại trên thuyền
với những người làm công, mà đi theo Người” (Mc 1,20). Chúa Giê-su khởi
đầu với niềm vui Nước Trời bao nhiêu thì các môn đệ đầu tiên bất ngờ bấy nhiêu.
Các môn đệ bất ngờ bởi vì nghĩ rằng mình chỉ là một người chài lưới đánh cá, suốt
ngày chỉ lênh đênh trên biển, gắn thân mình vào những con thuyền cùng với những
chiếc lưới, đến nỗi một chữ “cắn đôi” cũng không biết thì làm sao có thể đi
theo Chúa được. Nhưng đối với Chúa Giê-su thì đây là một niềm vui bởi vì Ngài
đã nhận thấy có men Nước Trời ở nơi đây, cách đặc biệt là qua những người này. Vì thế, vào mọi thời và trong mọi dân tộc, bất kỳ
ai kính sợ Thiên Chúa và thực thi đức chính trực đều được Người tiếp nhận (x.Cv
10,35). Tuy nhiên, Thiên Chúa muốn thánh hóa và cứu độ con người không
như những cá nhân riêng rẽ không chút liên đới với nhau, nhưng Ngài muốn làm
cho họ thành một dân tộc để họ nhận biết Ngài trong chân lý và phụng sự Ngài
trong thánh thiện [2].
Khi đứng trên bờ biển Ga-li-lê, Chúa
Giê-su đã quan sát các ông rất kỹ và các quy trình các ông đánh bắt cá. Các ông
có một cơ bắp rắn chắc với một sức khỏe rất dẻo dai. Ngài đã thấy sự khéo léo của
các ông khi tung những chiếc lưới bao trùm toàn bộ đàn cá đang tung tăng trên mặt
biển. Từ đó với kinh nghiệm chài lưới, các ông đã đưa toàn bộ đàn cá vào trong
khoang thuyền. Chúa Giê-su cũng nghe thấy những tiếng ca khen và sự vui mừng
khi các ông thu được chiến lợi phẩm, để bù đắp lại công sức đã bỏ ra sau những vật
lộn với biết bao sóng gió để có được những con cá này. Qua những quan sát đó,
trong suy nghĩ của Ngài đã nghĩ ngay tới Nước Trời. Nước Trời cũng giống như mặt
biển, cá là những con người đang sống tản mác khắp nơi, người đánh cá chính là
sứ vụ rao giảng mà chính Ngài đang thực hiện. Từ đó, Ngài đã kêu gọi các ông đi
theo Người, thay vì đánh cá dưới biển thì Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ
lưới người như lưới cá (Mc 1,17). Chúa Giê-su đã gán sứ vụ của Ngài cho các môn
đệ, bởi vì công việc của Chúa Giê-su cũng giống như các ông đang đánh cá. Một sự
kết hợp hài hòa giữa một bên suốt ngày chỉ quen với nghề mộc và bên kia chỉ quen
với nghề biển. Giữa hai thực tại này, theo quan niệm xã hội thời bấy giờ thì có
một khoảng cách rất xa. Thợ mộc là những người thượng lưu, còn những người đánh
cá là những người bên lề của xã hội. Đối với họ là khoảng cách nhưng đối với Chúa
Giê-su là một sự bổ trợ cho nhau. Ngài đã nhìn ra được điểm chung nhất giữa
Chúa Giê-su và các ông đó là tìm kiếm Nước Trời và quy phục lòng người trong
tình yêu duy nhất. Sứ vụ của Chúa Giê-su lúc này cũng là sứ vụ của các ông và công
việc của các ông cũng là công việc của Chúa Giê-su đang thực hiện. Giữa Chúa
Giê-su và các ông lúc này không phải là hai cuộc sống nhưng là một cuộc sống
duy nhất “như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta” (Ga
17,20). Ngài đã cho các ông thấy được sự cao cả của các ông đối với Ngài “Nếu
thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước” (Ga 15,18).
Chúa Giê-su dường như muốn khơi lại cho các ông thấy giá trị cuộc sống hiện tại,
để các ông thấy rõ cuộc sống hiện tại của các ông không phải cho riêng các ông
nhưng là cho chính Thiên Chúa. Sống cho người khác mới là một giá trị cao cả và
cũng là lẽ sống của con người dương thế, nếu mất điều này thì cuộc sống trở nên
vô nghĩa hơn bao giờ hết. Các ông là phần chi thể sống của chính Ngài như E-và
được rút từ A-dam khi xưa thế nào thì nay các ông cũng được rút ra từ chính
thân thể của Chúa Giê-su thế ấy (x. St 2,21-25). Đây quả là một hồng ân.
Cuộc gặp gỡ trong cái nhìn khởi đầu giữa Chúa Giê-su và các môn đệ đã trở
thành lẽ sống của nhau. Chúa Giê-su và các môn đệ đã từ bỏ tất cả những gì là
quý giá nhất để đi vào lòng nhân thế và mang lời hằng sống cho tất cả mọi người.
Để từ đây, cuộc sống giữa Chúa Giê-su và các môn đệ được gắn kết với nhau trong
một tình yêu. Từ hai thực tại cuộc sống giữa Chúa Giê-su và các môn đệ được quy
tụ về một mái nhà duy nhất trong một tình yêu duy nhất. Sống tình huynh đệ giữa
Chúa Giê-su và các môn đệ không chỉ dừng lại ở những lúc nhìn thấy nhau mà ngay
cả những lúc hai cuộc sống này tách biệt nhau. Đó không chỉ là lời hứa của
Thiên Chúa dành cho các môn đệ mà còn ám chỉ và nhắn nhủ đến muôn thế hệ sau
khi sống tương quan với Chúa cách mật thiết, đó chính là lúc ta cầu nguyện. Lúc
ta cầu nguyện là lúc ta được sống và trở về với mối tình thân ái giữa Chúa
Giê-su và các môn đệ “mỗi lần anh em hội họp nhau để cầu nguyện thì Ta ở giữa
anh em” (x.Mt 18,19-20).
2/ Chúa Giê-su và các môn đệ là bạn hữu của nhau
Sau những ngày tháng các môn đệ được sống,
được chia sẻ, được chứng kiến, được ăn, được uống và được đi với Chúa Giê-su. Chúa
Giê-su đã cảm nhận được trong ánh mắt, trong con người các ông đã có một sự biến
đổi sâu sắc. Ánh mắt các ông không còn nhìn mọi sự chỉ gói gọn trong một vùng
biển hay những con cá để kiếm sống cho qua ngày mà có một sự hy sinh quảng đại
sống và cứu chữa người khác. Trong lòng các ông dường như toát lên được lòng
yêu mến nồng nàn xuất phát từ trái tim đang rướm máu, chất chứa niềm yêu thương
và sự quảng đại nghĩ đến tha nhân hơn là bản thân. Các ông dường như được Chúa
Giê-su tưới đẫm máu yêu thương để các ông đón nhận và cảm thấy bản thân các ông
đã thuộc trọn về Chúa. Các ông như những cành ôliu hoang dã được kết hợp và được
nuôi dưỡng nhờ gốc rễ ôliu tươi tốt [3]. Trên bước đường rao giảng,
Chúa Giê-su đã chia sẻ tất cả sứ vụ của Ngài cho các ông để các ông thấy và noi
gương bắt chước Ngài. Chính Ngài đã nói “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em
thực hiện những điều Thầy truyền dậy. Thầy không còn gọi anh là tôi tớ nữa, vì
tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những
gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,14-15). Được Đức Ki-tô thiết lập
để đi vào hiệp thông sự sống, bác ái và chân lý, dân tộc này cũng được Người sử
dụng như khí cụ để cứu chuộc mọi người, và được sai đi vào thế giới như ánh
sáng trần gian và muối đất (x.Mt 5,13-16) [4]. Chúa Giê-su và các môn đệ
có hai hoàn cảnh sống khác nhau nhưng đã nên một trong tình yêu. Tác giả sách
Tin mừng đã cho ta thấy một bức tranh, một hình ảnh thật tuyệt vời trong mối tình
sâu đậm giữa Chúa Giê-su và các môn đệ. Một bức tranh được tô đậm trong hai
hình ảnh: một bên được vẽ lên hình ảnh giữa người chủ với người tôi tớ và một
bên là hình ảnh người bạn thân tình với nhau. Trong hai hình ảnh của một bức
tranh, tác giả đã vẻ cùng một nhân vật để nói lên khoảng cách giữa người chủ và
người đầy tớ xa rời nhau được so sánh với một bức tranh giữa chủ và tớ được hòa
quyện với nhau trong một tình yêu duy nhất. Tình yêu này không còn đơn phương độc
mã nhưng là tình yêu của sự đoàn tụ, cùng nhau nhìn đến sứ vụ chung nhất. Từ
đây mọi việc Chúa Giê-su tiếp nhận từ Cha Thầy thì cũng được chia đều cho các
môn đệ.
Qua hình ảnh khiêm hạ và sự sáp nhập sứ
vụ của Chúa Giê-su vào trong sứ vụ của các tông đồ. Chúa Giê-su đã dậy cho các
ông biết, chỉ có tình yêu mới lấp đầy hố ngăn cách giữa con người với nhau. Mặc
dù mỗi người có một tính cách, mỗi người có một suy nghĩ nhưng khi đã kết hợp với
nhau thì hãy bỏ qua tất cả những điều riêng tư để suy nghĩ và làm theo một mục
đích chung duy nhất. Cuộc sống giữa Chúa Giê-su và các môn đệ trở nên khăng
khít và gắn bó với nhau. Vì thế, Được Thiên Chúa kêu gọi không phải vì công lao
riêng, nhưng do ý định và ân sủng của Thiên Chúa, và được công chính hóa trong
Chúa Giê-su, trong ơn Thánh tẩy nhờ đức tin, các môn đệ Đức Ki-tô đã thật sự trở
nên con cái Thiên Chúa và được thông phần vào thần tính, và do đó, thật sự đã
trở nên thánh.[5]
3/ Chúa Giê-su trở thành đầy tớ các môn đệ
Dù mối tương quan giữa Chúa Giê-su và các môn đệ có hòa quyện đến đâu
thì các môn đệ cũng không để cho Thầy phải cúi xuống rửa chân cho mình. Đây là
một công việc của các đầy tớ chứ không phải là công việc của người chủ. Nhưng
Chúa Giê-su đã làm công việc của một người đầy tớ, khi lấy nước rửa chân cho
các môn đệ và lấy khăn để lau (x.Ga 13,5). Đây là một cử chỉ nói lên tình yêu
mà Chúa Giê-su dành cho các môn đệ và cũng là bài học khiêm nhường, phục vụ mà
Chúa Giê-su muốn dậy không những các tông đồ mà là một “di trúc” để lại cho
muôn thế hệ sau [6].
Đối với xã hội chắc có lẽ không bao giờ thấy người trên cúi xuống rửa chân hay
làm một công việc của người đầy tớ. Đối với Chúa Giê-su thì khác hoàn toàn, người
ở trên là những người phải phục vụ những người ở dưới, và làm đầy tớ cho những
người thuộc thẩm quyền của mình. Khi Chúa Giê-su tiến tới chỗ Phê-rô thì với
cách suy nghĩ của con người, Phê-rô đã phản đối công việc Thầy đang làm và nói “Thầy
mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu” (Ga 13,8), nhưng Chúa Giê-su đã đi xa
hơn những điều mà Phê-rô đang nghĩ “Nếu Thầy không rửa chân cho anh, anh sẽ chẳng
được chung phần với Thầy” (Ga 13, 8). Sau đó, Phê-rô đã thấu hiểu việc Thầy làm
và đòi hơn thế nữa “Vậy, Thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và
đầu con nữa” (Ga 13,9). Bài học của Người không chỉ dừng lại ở cử chỉ rửa chân
nhưng qua việc này Chúa Giê-su muốn dậy các ông bài học yêu thương (Ga 13,-16).
Chính Chúa Giê-su đã lên án và cảnh cáo các môn đệ về điều mà các môn đệ không
được phép làm “những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị
dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quan dân. Nhưng giữa anh em thì
không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh
em. Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc10,41-44). Chính vì thế, Chúa Giê-su
đã cho các ông thấy điều này khi Người cúi xuống rửa chân cho các ông. Mặc dù
các ông bước theo Chúa Giê-su nhưng Chúa Giê-su không coi các ông là những người
đầy tớ chỉ có biết theo Người rồi Người sai gì thì làm, nhưng Chúa Giê-su đã
coi các ông ngang hàng với mình, cùng chia sẻ và thông phần với những công việc
mà chính Ngài đang làm. Theo Chúa Giê-su không phải là để ăn trên ngồi chốc chỉ
muốn người ta phục vụ mình chứ không muốn phục vụ người khác “Thầy đến không phải
để được người ta phục vụ nhưng là phục vụ và hy sinh mạng sống làm giá cứu chuộc
muôn loài” (Mc 10,45).
4/ Kết luận
Qua những gì đã phân tích và tìm hiểu đã cho người viết bài học thật quý
giá. Từ đó ý thức hơn về con đường và sứ vụ sau nay khi được Chúa mời gọi. Sứ vụ
người mục tử không phải là những người ăn trên ngồi chốc, đứng để chỉ tay năm
ngón nhưng là một người mục tử biết xả thân vì đoàn chiên, biết quan tâm, chia
sẻ với đoàn chiên mà Chúa đã giao phó. Đoàn chiên không phải là những đầy tớ chỉ
để phục vụ và làm lợi ích cho bản thân, nhưng đoàn chiên này đang cùng chia sẻ,
đang cùng những vị mục tử tìm kiếm hạnh phúc Nước Trời. Hố sâu của sự ngăn cách
đó chính là sự phân biệt và khinh thường nhau mà trong đó tình yêu Đức Ki-tô
không hiện diện. Tất cả hãy lấy tình yêu Đức Ki-tô để phủ lập tất cả những rào
cản ngăn cách các vị mục tử với đoàn chiên và đoàn chiên với các vị mục tử. Chỉ
có như thế, mới làm triển nở và sinh hoa trái cho Tin mừng Chúa giữa lòng nhân
loại. Chính Chúa Giê-su đã nói “mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy
ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35).
[1] Công Đồng Vaticano II, Tuyên ngôn
Tôn giáo ngoài Ki-tô giáo, Số 5, 746.
[2] Công Đồng Vaticano II, LG, Số 9, 83.
[3] Công Đồng Vaticano II, Tuyên ngôn
Tôn giáo ngoài Ki-tô giáo, Số 4, 743.
[4] Công Đồng Vaticano II, LG, Số 9, 84.
[5] Công Đồng Vaticano II, LG, Số
40,143.
[6] Công Đồng Vaticano II, LG, Số
41,144.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)