Anton Công Chính
Nếu ai chưa một lần ngồi trước bãi biển để chiêm ngắm cảnh bình
minh thì đúng thật tiếc nửa đời người. Khi ngồi chiêm
ngắm, dường như ta được sống lại và cảm thấy mình thật nhỏ bé và nhất là được
hòa quyện với cảnh vật thiên nhiên. Qủa thật, không có một ngôn từ nào có thể
diễn tả hết tâm trạng lúc này. Hòa chung với khung trời rộng lớn đang chuyển động
là những làn sóng nhấp nhô đập vào “thành” của những chiếc thuyền, như là sự
thúc giục hãy ra khơi. Mặc dù con thuyền là thứ vô tri nhưng lúc này nó tạo cho
ta một cảm giác, nó không phải là thứ vô tri mà tự bản chất nó đang có một sức
sống thật mãnh liệt. Nó không bao giờ “chùn chân” trước sức mạnh của sóng vỗ mà
dường như nó đang lấy sức mạnh để vươn xa hơn giữa biển khơi. Từ những hình ảnh
đó, làm người viết liên tưởng đến hình ảnh của Giáo hội. Một Giáo hội không bao
giờ “chùn bước” trước những luồng tư tưởng sai lạc. Một Giáo hội luôn đứng vững
trước các cuộc sâm chiếm. Một Giáo hội vươn xa chứ không phải một Giáo hội yếu
hèn, co cụm. Trải qua dòng lịch sử, con thuyền Giáo hội vẫn tiến bước và vươn
lên trước “phong ba bão tạp” ập xuống. Chống trả trước những trận cuồng phong của
biển khơi đã làm mái chèo của Giáo hội có sự “sứt mẻ” nhưng vẫn không làm “kiệt
sức” con thuyền. Từ những trận cuồng phong đó đã tạo cho mai chèo có kinh nghiệm
hơn để tìm cách chống trả những trận cuồng phong tương tự. Từ đó lấy lại sức mạnh
của chính mình và đưa cả con thuyền đến đỉnh cao của sự thành công.
1/
Hình ảnh Giáo hội qua Con thuyền Ông Nô-ê
Thánh
Kinh chính là Lời của Thiên Chúa. Thiên Chúa
đã linh hứng cho các tác giả, để các ngài viết lại những Lời của Thiên
Chúa. Khởi đầu trong bộ Kinh Thánh là
sách Sáng Thế. Qua sách Sáng thế, chúng ta đã bắt gặp một khung cảnh tràn đầy
nước “Thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,2). Thiên Chúa đã làm một
công việc hết sức quan trọng đó là phân tách và trang trí mọi sự theo ý của
Thiên Chúa. Chỉ trong sáu ngày Thiên Chúa đã vẽ lên một bức tranh tràn đầy sức
sống của muôn màu “Thế là trời đất cùng với mọi thành phần đã hoàn tất” (St
2,1). Chắc chắn Thiên Chúa cũng rất tự hào khi chiêm ngắm bức tranh mà Ngài đã
bỏ ra sáu ngày để vẽ “Ngày thứ bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành công việc Người
làm. Khi đã làm xong mọi việc của Người, ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ ngơi”
(St 2,2). Qua sách sáng thế ta thấy được hình ảnh Giáo hội tiên khởi với đầy đủ
màu sắc, một Giáo hội được kết hợp mật thiết với Thiên Chúa, một Giáo hội được
sống trong ân tình với Thiên Chúa. Quả thật Giáo hội là một “dân” được hình
thành không phải bởi xác thịt, nhưng bởi nước và Thánh Thần (x. Ga 3,5-6) [1].
Nhưng hình ảnh Giáo hội tốt đẹp ban đầu đó đã
bị chính thành viên trong Giáo hội phá vỡ. Chỉ vì “kiêu ngạo” nên con người đã
bị “sa tan” cám dỗ, để phá vỡ mỗi tình tốt đẹp ban đầu. Từ đây, hình ảnh Giáo hội
đã bị “méo mó”. Đỉnh cao của sự “méo mó” chính là sự hủy diệt của Thiên Chúa và
lúc này Giáo hội Chúa chỉ được “đong đầy” trong chiếc thuyền. Đó chính là chiếc
thuyền của ông Nô-ê. Chiếc thuyền của ông đã được Thiên Chúa thiết kế và chỉ bảo
cặn kẽ để ông thực hiện “Ngươi hãy làm cho mình một chiếc tàu bằng gỗ bạch. Ngươi
sẽ làm tàu có những ngăn và lấy nhựa đen mà trám cả trong lẫn ngoài. Ngươi sẽ
làm tàu thế này: Chiều dài một trăm lăm mươi thước, chiều rộng hai mươi lăm thước,
chiều cao mười lăm thước. Ngươi sẽ làm một cái mui che tàu, và đặt mui cách
phía trên tàu nửa thước. Cửa tàu, ngươi sẽ đặt ở bên hông; ngươi sẽ làm tầng dưới,
tầng giữa rồi tầng trên” (St 6, 14-16). Đây như là mô hình mới của Giáo hội được
Thiên Chúa làm nên. Mô hình này được quy tụ đầy đủ các thành phần có trong thế
giới tạo dựng ban đầu. Đó là những thành phần đã được Thiên Chúa tuyển chọn để
tiếp nối và làm cho Giáo hội mới này được sinh hoa kết quả. Con cháu của những
thành phần này sẽ ý thức hơn về sứ vụ mà Chúa giao phó, bởi xuất thân trong
thành phần lòng cốt của Thiên Chúa “Đức Chúa phán bảo với ông Nô-ê: Ngươi hãy
vào tàu, ngươi và cả nhà ngươi, vì Ta chỉ thấy ngươi là người công chính trước
nhan Ta trong thế hệ này. Trong mọi loài vật thanh sạch, ngươi sẽ lấy bảy đôi,
con đực và con cái, còn trong các loài vật không thanh sạch, thì một đôi, con đực
và con cái. Trong các loài chim trời cũng bảy đôi, trống và mái, để giữ giống
trên khắp mặt đất” (St 7,1-3). Sau khi tất cả những loài được Thiên Chúa chọn
đã vào được tàu, Thiên Chúa đã cho đóng cửa tàu lại và cho mưa trút xuống mặt đất
bốn mươi đêm ngày hầu tiêu diệt mọi thứ trên mặt đất, ngoài trừ những gì trong
con thuyền của ông Nô-ê. “Nước tăng lên và nâng tàu lên, khiến tàu ở cao hơn mặt
đất. Nước dâng và tăng thêm nhiều trên mặt đất, và tàu lênh đênh trên mặt nước”
(St 7, 17-18). Qua đó cho ta thấy hình ảnh Giáo hội ngay từ khởi đầu đã phải chịu
những trận cuồng phong ập xuống. Giữa muôn trùng sóng dữ, nhưng con thuyền Giáo
hội không bao giờ bị nhấn chìm bởi có bàn tay quan phòng của Thiên Chúa nâng đỡ.
2/ Con thuyền
là sự quy tụ
Trên thế
giới có rất nhiều con thuyền và mỗi con thuyền làm những nhiệm vụ khác nhau, chính
vì thế cũng có rất nhiều bến đậu khác nhau. Nhiệm vụ của những con thuyền là tiếp nhận
khách và đưa khách đến nơi người đó cần đến. Cánh cửa để đến
với mỗi con thuyền luôn rộng mở, vì thế mỗi người phải xác định cho mình một
con thuyền duy nhất để mình có thể xuống và cập bến an toàn. Có những con thuyền
đi mãi mà cuối cùng không biết mình nên đậu ở bên nào cho phải. Đó chính là con
thuyền nhất thời, chạy theo thời đại, thấy người khác làm thuyền thì cũng làm
theo để tiếp nhận tất cả những vị khách mà chính bản thân con thuyền đó không
biết nơi mình cần đến là ở đâu. Chính vì thế mỗi người cần có một khoảng thời
gian để suy xét và nhận định coi con thuyền nào là tốt nhất, con thuyền nào có
thể chở ta đi được an toàn, đúng nơi mình cần đến. Trong cuộc sống ta luôn thấy
và nghe những tin quảng cáo, tin nào cũng cho sản phẩm của mình là “số một”, mục
đích chính là để đánh giá thấp những sản phẩm khác. Khi nghe như thế, có lẽ điều
đầu tiên ta cảm thấy mát tai, nhưng khi chọn lựa thì cũng chỉ chọn một mà thôi
chứ không thể chọn hai hay ba sản phẩm cùng loại. Sống trên trần gian là cả một
sự chọn lựa, chỉ khi nào nhằm mắt lìa thế ta mới hết chọn lựa, lúc này ta chỉ
con “chiêm ngưỡng” mà thôi. Thật vậy ở thế gian này, chúng ta thuộc về công
trình của Thiên Chúa như những viên đá sống động xây nên thành thánh (x. 1Pr
2,5). Thánh Gioan đã chiêm ngưỡng thành thánh ấy, khi địa cầu được đổi mới,
thánh đô từ trời, từ Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm để
đón tân lang (Kh 21, 1tt) [2].
Mỗi
con thuyền vượt biển khởi đều có một biểu tượng và một màu cờ khác nhau, để cho
những vị khách có thể nhận biết mình đang ở con thuyền nào và nhất là khi trên
bước đường có lạc bước thì cũng biết nhìn lên màu cờ để quay trở về với con
thuyền của mình. Đến với con thuyền của Đức Ki-tô, là đến với màu cờ của tình
yêu, màu cờ của tha thứ, màu cờ của hy vọng, màu cờ của sẻ chia, màu cờ của một
đời sống vĩnh cửu mai sau. Chính Đức Ki-tô là người chủ và là Người sẽ chéo lái
con thuyền này vượt biển khơi, vượt thắng tất cả những rào cản. Để được vào và trở
thành thành viên của những con thuyền, trước hết mỗi người phải bỏ ra một khoản
chi phí, như là một sự thỏa ước ban đầu giữa hai bên. Chính vì thế, để được vào
trong và là thành viên trong con thuyền Giáo hội, thì điều đầu tiên mỗi người
phải qua bí tích rửa tội. Nhờ phép rửa, chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với
Đức Ki-tô: “Chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thánh Thần để trở nên
một thân thể” (1 Cr 12,13) [3]. Đây chính là cửa ngõ để
được vào trong lòng Giáo hội. Qua cửa ngõ này, mỗi người sẽ là thành viên là
chi thể sống động của Chúa Ki-tô và được hợp nhất trong gia đình Giáo hội. Qua
cửa ngõ này, mỗi người đều được tham dự và thông phần vào chức năng tư tế, ngôn
sứ và vương đế của chủ thuyền là Đức Ki-tô. Thật vậy, Giáo hội được Đức Ki-tô
“yêu thương và hiến mình để thánh hóa” (Ep 5, 25), được liên kết với Người bằng
một giao ước bất khả phân ly, không ngừng được “nuôi nấng và chăm sóc” (Ep
5,29), đó cũng là Giáo hội thanh sạch mà Đức
Ki-tô muốn phải luôn kết hợp với Người và vâng phục Người trong tình yêu và
trung tín (x. Ep 5,24), sau cùng, đó chính là Giáo hội luôn được Đức
Ki-tô tuôn đổ tràn đầy mọi ân huệ trên trời, để làm cho chúng ta hiểu được tình
yêu của Thiên Chúa và của Đức Ki-tô đối với chúng ta, một tình yêu vượt trên mọi
hiểu biết (x. Ep 3, 19) [4]. Qua đó, nói lên rằng mỗi
người sẽ phải mang một trọng trách thông chia cùng với sứ vụ của chủ thuyền.
Con thuyền Giáo hội không phải là con thuyền của vô cảm, lãnh đạm, ai thích vào
thì vào, ai thích ra thì ra, nhưng là một con thuyền hoàn toàn sống động, con
thuyền của yêu thương, con thuyền của sự thông chia. Mỗi người sẽ được thông phần
cách mật thiết với chủ thuyền để cùng đưa con thuyền ngày một vươn xa hơn và ra
sức bảo vệ mỗi khi gặp khó khăn gian khổ. Từ đó, tạo nên một sức mạnh, hầu làm
gương và giúp đỡ những con thuyền bên cạnh, để họ nhận ra được đâu là con thuyền
họ cần đến trong cuộc sống trần gian này, và đâu là con thuyền đưa ta đến bến của
hạnh phúc và cuộc sống mai sau. Con thuyền Giáo hội không bao giờ chật hẹp, vì
thế cánh cửa con thuyền luôn luôn rộng mở để tiếp nhận bất cứ ai muốn gia nhập
vào trong con thuyền này để kết dệt nên hạnh phúc mai sau trong cuộc hành trình
dương thế.
3/
Con thuyền vượt biển khơi
Chắc
có lẽ ai cũng biết bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh . Tác giả đã hòa quyện với những
“làn sóng” để diễn tả một tình yêu thật trong sáng và cao đẹp của đôi nam nữ
“sóng bắt đầu từ gió. Gió bắt đầu từ đâu. Em cũng không biết nữa. Khi nào ta
yêu nhau”. Chỉ có những người trong cuộc mới cảm nhận được sức mạnh của tình
yêu. Chính vì thế, để cảm nhận được “gió” và “sóng” của biển thì chắc có lẽ lúc này tác giả đang đứng
trên một con thuyền. Mặc dù chênh vênh giữa lòng biển nhưng con thuyền vẫn
không bị nhấn chìm trong những đợt sóng, mà luôn tìm cách “đứng vững” và vươn
xa hơn nữa trong đại dương bao la.
Cũng
thế, chúng ta được gia nhập trong con thuyền Giáo hội dưới sự dẫn dắt của Thiên
Chúa. Sống trong lòng Giáo hội ta mới cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa
thông ban cho con người. Chính tình yêu Đức Ki-tô bao phủ và thôi thúc con tim
của mỗi người đang bị chai lỳ, đang bị vùi lấp bởi những thế lực bên ngoài, nay
nhận được nguồn sống. Từ đây, con tim này phải ra sức chiến đấu để bảo vệ sức sống
và tiếp nhận nhiên liệu để chiến đấu trước những đợt sóng gió sẽ sẩy đến trong
cuộc hành trình đang diễn ra. Trước hết, mỗi người đều phải xác định, xung
quanh con thuyền ta đang tiến bước luôn có những thù địch đang nhòm ngó để mỗi
khi ta “sơ hở” chúng sẽ tấn công ta tức thì. Như vậy, không có nghĩa là chúng
ta luôn sợ hãi, co cụm lại trong một góc của con thuyền mà không dám đứng ra để
đối chọi hay đương đầu với những thế lực này. Nếu như vậy, chúng sẽ được đà lấn
tới và nhấn chìm con thuyền của ta giữa lòng biển sâu thẳm. Cho nên, mỗi người
trong chúng ta là chi thể sống động của con thuyền, phải hợp sức lại để đương đầu
với những đợt sóng gió để đứng vững giữa biển trời bao la. Như tất cả các chi
thể của thân thể, tuy nhiều, nhưng chỉ tạo thành một thân thể, thì các tín hữu
trong Đức Ki-tô cũng vậy (x. 1Cr 12,12). Trong việc xây dựng thân mình Đức
Ki-tô, rất cần đến sự đa dạng của các chi thể và phận vụ [5]. Qua bí tích rửa tội, mỗi
người phải có trách nhiệm và bổn phận đối với con thuyền Giáo hội. Mỗi người là
một mắt xích sống động trên cuộc hành trình biển khơi. Nhờ Người, “toàn thân,
do được kiến tạo và liên kết với nhau nhờ các đường gân khớp nối, được tăng trưởng
nhờ chính Thiên Chúa” (Cl 2,19). Chính
vì thế đừng để cho mắt xích của mình rời khỏi “khoang thuyền” mà mình không biết.
Mặc dù cũng có những mắt xích đã bị bật tung khỏi khoang thuyền để hòa với những
làn sóng bên ngoài, nhưng không vì thế mà con thuyền của ta bị nhấn chìm. Nhưng
những mắt xích con lại vẫn tiếp tục đứng vững và đan kết với nhau để tiếp tục
đưa con thuyền Giáo hội vượt thắng tất cả. Thực vậy, trong cuộc chiến đấu có những
người bị “hy sinh”, có những người bị “hất tung” khỏi cuộc chơi, có những người
bị thương. Tất cả những điều này, không làm nản chí những thành viên khác trong
con thuyền. Nhưng họ đã lấy những điều này làm “động cơ” và “bàn đạp” để chiến
đấu và tiến xa hơn nữa. Thật vậy, tiến bước trên đường lữ hành giữa những bách
hại của thế gian và những an ủi của Thiên Chúa, Giáo hội loan báo Thập giá và
cái chết của Chúa cho đến khi Người đến (x. 1Cr 11,26). Nhưng được củng cố nhờ
quyền lực của Chúa Phục sinh, với sự kiên nhẫn và tình yêu thương, Giáo hội vượt
thắng các khổ nhọc và khó khăn bên trong cũng như bên ngoài, để trung thành tỏ
lộ cho thế giới mầu nhiệm của Đức Ki-tô, hiện vẫn đang còn bị che khuất, cho đến
lúc được biểu lộ dưới ánh sáng vẹn toàn [6].
Trong
những “cuộc chiến đấu” của Giáo hội, có những người trong con thuyền đã phải
kêu lên tới Thiên Chúa và đặt câu hỏi với Chúa, tại sao Ngài để cho Giáo hội
đau khổ như thế?. Con phải tìm cách nào để bảo vệ và chống trả lại trước những
sóng gió ngày càng mạnh đang ập xuống trên Giáo hội của Ngài không?. Tại sao
Ngài vẫn im lặng ?. Những điều này cũng nói lên rằng con thuyền Giáo hội không
phải là con thuyền nằm im để hưởng thụ hay bị chà đạp nhưng là con thuyền đang
sống, đang hoạt động cách mạnh mẽ, luôn có sức vươn xa để đương đầu với những
làn sóng đang diễn ra xung quanh Giáo hội. Chính vì thế, con thuyền Giáo hội
luôn dẫn đầu trước những con thuyền khác, hầu có thể thúc giục những con thuyền
khác hãy hợp nhất với con thuyền Giáo hội để cùng nhau vượt thắng trước những
trận cuồng phong để tìm đến với Thiên Chúa là nguồn chân lý đích thực. Qủa vậy,
trong con thuyền Giáo hội, mỗi người được sống trong mối thân tình sẻ chia với chủ
thuyền, để cùng Ngài tìm đến nguồn hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Có thể nhiều lúc
chủ thuyền đã giả vờ ngủ để “tự do" cho những thành phần lòng cốt trong
con thuyền điều khiển Giáo hội bước đi trong lòng thế giới “Đức Giê-su đang ở
đàng lái, dựa đầu vào chiếc gối để ngủ” (x. Mc 4, 38), nhưng con thuyền đã bị
chao đảo, tưởng chừng như chìm hẳn, bởi vì có một trận cuồng phong nổi lên,
sóng ấp vào thuyền, đến nối thuyền đầy nước (Mc 4,38). Tưởng chừng các ông đã
quên Chúa, không cần sự giúp đỡ của Ngài, các ông vẫn có thể chống chọi được với
sóng dữ nhưng tất cả đều trở nên vô vọng. Chính lúc này các ông đã nhớ đến Chúa
và đến để cầu xin Ngài “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì
sao?” (Mc 4,38) và Ngài đã ra tay cứu giúp “Người thức dậy, ngăm đe gió, và
truyền cho biển: Im đi! Câm đi. Gió liền tắt, và biển lặng như tờ” (Mc 4, 39). Lúc này, không phải Ngài
đang ngủ mà chính các ông đang ngủ, đang bỏ quên Chúa, để tự mình có thể chống
trả được với sóng giữ mà không cần đến bàn tay của Thiên Chúa. Qủa vậy, những
thành phần chủ chốt trong con thuyền Giáo hội ngày hôm nay nhiều lúc đã bỏ quên
Chúa để tự mình chiến đấu với những làn sóng ập xuống trên Giáo hội. Nên có những
thời kì con thuyền Giáo hội tưởng chừng như bị nhấn chìm trong lòng thế giới,
nhưng đã có những thành phần khác chạy đến với Thiên Chúa để cầu cứu Ngài, xin
Ngài ra tay cứu giúp, và Thiên Chúa đã ra tay cứu giúp, chính vì thế con thuyền
Giáo hội được sống trở lại và lôi kéo được nhiều thành phần trong con thuyền
khác trở lại và kết nạp được nhiều thành phần khác từ những con thuyền xung
quanh. Càng ngày con thuyền Giáo hội càng trở nên đông đúc và vững mạnh, và
cánh của con thuyền Giáo hội luôn rộng mở để tiếp nhận bất cứ ai muốn gia nhập
trong con thuyền này.
4/ Tạm
kết
Con
thuyền Giáo hội không phải của riêng ai, nhưng là của tất cả những ai muốn chạy
đến và gia nhập trong con thuyền này. Mọi người đều được mời gọi vào đoàn dân mới
của Thiên Chúa. Vì thế, chỉ một đoàn dân duy nhất của Thiên Chúa phải được lan
rộng khắp thế giới và trải dài qua mọi thời, để hoàn thành ý định của Thiên
Chúa, Đấng từ khởi nguyên đã thiết lập bản tính duy nhất của con người, và quết
định cuối cùng sẽ quy tụ về một mối, tất cả con cái của Ngài đang tản mác khắp
nơi (x. Ga 11,52) [7]. Trong
con thuyền mỗi người là một chi thể sống động. Chính vì thế, mỗi chi thể đều phải
có một bổn phận gìn giữ con thuyền và mang ơn lành từ con thuyền này đến với tất
cả những con thuyền xung quanh, để các chi thể trong con thuyền khác nhận ra được
đâu là nguồn hạnh phúc đích thực của đời sống mai sau. Chính đời sống trong từng
chi thể của con thuyền Giáo hội, như là tấm gương phản chiếu cho những chi thể
trong những con thuyền xung quanh. Con thuyền có mạnh mẽ hay không phụ thuộc
vào từng chi thể trong con thuyền đó, vì thế ta phải luôn kết hợp mật thiết với
chủ thuyền để nhận nguồn sức mạnh, và nguồn lương thực để nuôi sống và đi ra để
kết nạp thêm các thành phần khác.
[1] Lm Anton Hà Văn Minh, Giáo hội như
là dấu chỉ bí tích, Nxb Tôn giáo 2015, 11.
[2]
Thánh Công Đồng Vaticano II,
Hiến Chế Lumen Gentium, 6, 75.
[3]
Thánh Công Đồng Vaticano II,Hiến
Chế Lumen Gentium, 7,77.
[5]
Thánh Công Đồng Vaticano II,
Hiến Chế Lumen Gentium, 7, 77.
[6]
Thánh Công Đồng Vaticano II,
Hiến Chế Lumen Gentium, 8, 82.
[7]
Thánh Công Đồng Vaticano II,
Hiến Chế Lumen Gentium, 13, 91.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét