Bạn thân mến:
Màu
nhiệm Lịch sử Cứu độ là ý định yêu thương từ muôn đời của Thiên Chúa, nhằm
thông ban sự sống, hạnh phúc mà Thiên Chúa ban cho loài người. Ý định này được
thực hiện qua công cuộc sáng tạo của Ngài. Nhưng vì loài người khước từ, mở
đường cho sự dữ sâm nhập vào thế gian, gây nên đau khổ và sự chết. Thiên Chúa
vẫn thực hiện ý định yêu thương, nên đã sai con một xuống thế làm người để cứu
độ loài người. Ý định của Thiên Chúa được thực hiện qua một chương trình, diễn
ra trong lịch sử loài người: Lịch sử dân Irael.
Lịch sử Cứu độ chính là:
-
Cuộc
gặp gỡ và đối thoại giữa Thiên Chúa và loài người,
-
Bắt
đầu từ việc Thiên Chúa tạo dưng trời đất muôn vật,
-
Trải
qua các bước thăng trầm trong thời gian,
-
Nhưng
luôn quy hướng về Chúa Kitô là trung tâm của lịch sử,
-
Và
chỉ hoàn tất khi Chúa Kito lại đến.
Thiên Chúa đã làm công việc mặc khải đó qua
hai cuốn sách.
-
Cuốn
sách vũ trụ: Mạc khải tự nhiên.
-
Cuốn
sách Kinh Thánh: Mạc khải siêu nhiên.
Có tất cả 3 cuộc Mạc khải của Thiên Chúa:
1. Mạc khải tự nhiên.
2. Mạc khải siêu nhiên.
3. Mạc khải trong Kinh Thánh.
Chúng ta đi sâu vào ơn Cứu độ của Thiên Chúa qua 2 Phần:
Phần I: Cựu ước: Chuổn bị ơn Cứu độ.
Phần II: Tân ước ban ơn Cứu độ.
Giáo hội nhìn nhận Cựu ước có 46 cuốn, thuộc nhiều thể văn
khác nhau như: Lịch sử, luật pháp, giáo huấn, giảng thuyết, thi ca do nhiều tác
giả viết, rải rác từ khoảng 1000 năm
trước khi Chúa Giêsu sinh ra.
Cựu ước là một lịch sử hướng về tương lai. Cựu
ước hướng đến việc thực hiện ý định Cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân loại.
Mạc khải về ý định Cứu độ của Thiên Chúa chỉ được hoàn tất nơi Đức Kitô.
Cựu ước hướng tới Đức Kitô, báo trước
và chuổn bị cho Người.
Mở đầu phần Cựu ước là sách sáng thế. Nói về việc Thiên Chúa sáng tạo muôn vật
trên mặt đất này, muôn tinh tú trên bầu trời và đặc biệt Thiên Chúa sáng tạo
con Người theo hình ảnh của Ngài. Mọi việc Thiên Chúa sáng tạo đều tốt đẹp.
Diễn tiến cuộc sáng tạo của Ngài trong 6 ngày như sau:
-
Nhập
đề: Thiên Chúa đã phán.
-
Ra
lệnh: Hãy có ánh sáng, hãy có đèn trời …..
-
Mô
tả việc: Thiên Chúa phân rẽ sáng và tối…..
-
Đặt
tên hoặc chúc phúc: Thiên Chúa gọi ánh sáng là ngày, tối tăm là đêm….
-
Ca
tụng: Thiên Chúa thấy thế là tốt lành.
-
Kết
thúc: Đã có một buổi chiều và một buổi sáng. Đó là ngày thứ nhất……….
Sáu
ngày Thiên Chúa tạo dựng được chia làm 2 giai đoạn song song và có liên hệ với
nhau là: Công trình phân tách và công
trình Trang trí.
Con Người được Thiên Chúa sáng tạo trong ngày thứ sáu, theo
hình ảnh của Thiên Chúa và đặt cho con người làm chủ mọi vật Thiên Chúa sáng
tạo, được đặt tên cho các con vật. Sau đó Thiên Chúa đặt con người trong vườn Êden để canh tác: trong vườn này muôn
trái cây đều được ăn nhưng chỉ có một trái cây ở giữa vườn Người không được ăn
và nếu ăn thì sẽ bị chết.
Rắn là loại xảo quyệt nhất trong các loài Chúa đã dựng lên. Đã cám
dỗ bà Evà ăn và sau đó đưa cho cả
ông Ađam đang ở đó cùng ăn. Ăn xong
mắt hai ông bà đã mở ra và thấy mình trần truồng, liền đi kết lá cây làm khố
che thân, Thiên Chúa vào vườn và hỏi như mọi khi, lúc này Ông bà đang lấp sau
rặng cây, vì sấu hổ mình trần truống. Thiên Chúa biết là ông bà đã ăn trái cây
ta cấm, Thiên Chúa đã trừng phạt ông bà: Thiên Chúa phán với ông Adam rằng “ Từ nay người phải cực nhọc mới có bánh ăn, phải làm lụng vất vả mới
nuôi được cuộc sống ” và Ngài nói với người đàn Bà: “ Phải cực nhọc khi mang nặng đẻ đau ”, rồi người đuổi ông bà ra khỏi
vườn Êden. Từ đó tỗi lỗi đã lan tràn
ra khắp nơi và truyền lại cho con Cháu sau này và mãi mãi về sau và từ đây con
người đã đánh mất ân nghĩa với Chúa.
Tội lỗi càng gia tăng
Khi Cain giết Aben, trật tự Thiên Chúa bị đảo lộn “ con Trai Thiên Chúa lấy con gái loài người ”, Thiên Chúa đã hủy
diệt mọi loài Thiên Chúa dựng nên, nhưng không tiêu điệt hết mà cứu vớt gia
đình ông Noe và tái tạo loài người,
sau đó tiếp tục là tội kiêu ngạo ở Tháp
Baben. Tuổi thọ giảm tức là con người đã đánh mất ân sủng. Tội là nguyên
nhân sự chết, con người chết sớm vì tội lỗi gia tăng. Qua tội lỗi của con người
nhưng Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong tội nhưng đã lên kế hoạch cứu đội
loài người.
Thiên Chúa chuổn bị cho kế hoạch cứu độ của Ngài bằng cách
kêu gọi ông Apraham, một người du
mục, thuộc chi tộc Têrắc, Thành Ur, xứ
Canđê.
Khi nghe được tiếng
Thiên Chúa mời gọi, Ông mau mắn đáp lại và dứt bỏ tất cả để ra đi, dù không hề
biết mình sẽ đi đâu và được những gì.
Thiên Chúa đã hứa với ông
là sẽ cho:
-
Ông
một dân tộc sẽ xuất phát từ Apraham.
-
Một
đất nước cho dân tộc ấy.
-
Một
phúc lành sẽ đến cho muôn dân nhờ Apraham.
Sau đó Thiên Chúa
thanh luyện niềm tin của ông khi yêu cầu ông sát tế I-sa-ác một thử thánh kinh khủng, nhưng ông Ap-ra-ham đã vâng phục. Lòng tin này thật phi thường, vượt trên mọi
lí luận, tính toán và tình cảm của con người. Ông đã chấp nhận mọi điều Chúa
dạy và mọi điều Chúa hứa.
Ông sinh được 12 người con trai đứng đầu 12 chi tộc Is-ra-el. Các anh cư xử độc
ác với Giuse, khi định giết cậu và
gải pháp cuối cùng là bán Giuse sang
Ai cập, nhưng Thiên Chúa đã biến nó thành cơ hội để cứu cả gia đình Gia-cóp thoát khỏi nạn đói và phát
triển một dân đông đảo trên đất Ai cập.
Thiên Chúa thấy
nỗi cơ cực của dân và chuẩn bị cho họ một vị cứu tinh là ông Mô-sê. Ông được vị công Chúa cứu lên
khỏi mặt nước và được công Chúa nuôi tại hoàng cung. Thiên Chúa đã dùng ông để
cứu dân tộc It-ra-el ra khỏi Ai cập. Qua ông Mô sê, Thiên Chúa giáng xuống Ai
cập nhiều tai họa. Nhưng phải đến tai họa thứ mười: Giết con đầu lòng Ai cập, thì con Chúa mới được ra đi.
Bàn tay mạnh mẽ của Chúa đã đưa dân người qua biển đỏ và chôn vùi quan thù
trong lòng biển sâu.
Sau đó Ông Mô Sê
đã dẫn dân đi trong xa mạc và trong xa mạc ông Mô sê đã găp biết bao điều
kho khăn mà dân của người. Chính những lần thử thách mà Thiên Chúa gửi đến cho
dân chính là Thiên Chúa thử lòng tin của dân có còn trung thành với Ngài nữa
không.
Và Thiên Chúa đã kí kết với dân người một Giao ước, là Giao ước
trên núi Sinai, Thiên Chúa đã chon
dân riêng của người và chăn sóc như cha với con.
Giao ước này được kí kết bằng một nghi lễ: Ông
Mô sê đã lấy máu của các con vật hi
sinh đổ một nửa trên bàn thờ và một nửa ông rảy trên dân chúng. Đó là hành động
liên kết chặt chẽ với nhau những người cùng chung một đòng máu, chung một gia
đình, chung một vận mệnh.
Hòm bia Giao ước Thiên
Chúa đã khắc 10 điều răn được cất giữ trong một hòm bia có dát vàng.
Phụng tự gồm:
-
Lễ toàn
thiêu.
-
Lễ
thông hiệp.
-
Lễ
xá tội.
Sau
khi ông Mô sê chết, Ông Giosue được Chúa chon để đưa dân Itrael vào đất Canan. Cuộc chinh phục đất hứa kéo dài khoảng 50 năm. Sau khi đã chiến thắng, họ đã thành
lập một quốc gia.
Sau
một thời gian họ sống trên đất của họ thì nhiều lần họ đã bội Giao ước, bỏ Chúa
để bắt chước lối sống của dân Canan mà
thờ lạy ngẫu tượng.
Thiên Chúa đã sai các Thủ
Lãnh đến để cứu thoát dân người, Thiên Chúa dùng các Thủ Lãnh với mục đích đưa ra bài học có thể tóm lại 4 chữ: Tội, Phạt, Hối, Cứu.
-
Tội:
Dân It-ra-el phạm tội bỏ Chúa.
-
Phạt:
Thiên Chúa sửa dậy bằng tai họa.
-
Hối:
Dân hối cải, trở về với Chúa.
-
Cứu:
Thiên Chúa gửi các Thủ Lãnh đến giải thoát.
Thời
kì các Thủ Lãnh kéo dài khoảng 200
năm.
Trải qua kinh nghiệm chiến tranh của thời các Thủ Lãnh, dân It-ra-el thấy rõ nhu cầu cấp bách phải có một vị đứng đầu để có thể
tập trung sức mạnh quân sự chống lại hiểm họa sâm lược từ các dân xung quanh.
Do nhu cầu thực tế lịch sử đó mà khai sinh nền quân chủ của It-ra-el vị vua đầu tiên là Sao lê, là người lãnh đạo cuộc chiến
đấu chống lại quân Philitinh. Cho
đến trân chiến với Amalech, ông đã
nghe lời dân mà không thi hành lệnh Thiên Chúa, nên Chúa đã bỏ ông và chọn
người khác đó là Đavít. Đa vít là vị Vua đạo đức và tôn kính
Thiên Chúa nhưng ông cũng là con người yếu đuối: ông đã phạm hai tôi lớn:
-
Tội
ngoại tình
-
Tội
sát nhân.
Nhưng ông đã biết khiêm tốn nhận lỗi lầm của mình và khi Đavít chuổn bị vật liệu xây đền thờ,
thì Chúa tỏ cho ông hay chính Chúa sẽ xây nhà cho ông.
Đavít chết và Salomon lên kế thừa khoảng năm 970 tcn. Salômon là một vị Vua nổi tiếng là sự khôn ngoan. Ông đã thực hiện
được ước mơ xây dựng đền Thờ cho Chúa của Vua cha.
Sau đó liên tiếp những lỗi lầm của Vua Salômon và con của Salômon
là Rôbôam đã đưa dân chúng vào con
đường lầm lạc và đưa đất nước đến chỗ diệt vong.
Trước bối cảnh như vậy Thiên Chúa sai các Ngôn sứ đến để phục
hưng lại Tôn giáo, cải tổ Xã hội và đời sống luôn lý của dân chúng.
Sau cuộc lưu đày ở Babylon, người Do Thái hồi hương, đời
sống gặp nhiều khó khăn nhưng họ đã xây dưng lại được đền Thờ và tường thành Giêrusalem. Điều quan trọng là phục
hưng về Tôn Giáo. Cuộc lưu đày đã giúp cho họ được Thanh tẩy, canh tân đời
sống, trở về với Chúa, chăm chú học hởi Lề Luật.
Việc chuốn bị đã đầy đủ “ Thời gian tới hồi viên mãn Thiên
Chúa đã sai con một mình tới ” là Đức Giê
su, con Thiên Chúa làm người, Thụ thai trong lòng Đức Trinh Nữ Maria và đã sinh ra tại Bê Lem, xứ Giu đê. Chúa Giê su xuống thế làm người
giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. Cũng một người mẹ trần thế như
bất cư một người bình thường nào trên trần gian nay. Đức Mẹ là người được Thiên
Chúa tuyển chọn để cưu mang và hạ sinh Đức Giê Su.
Chúa Giêsu làm người là để đến với tất cả loài người, không
phân biệt Do Thái hay dân ngoại, sang giàu hay nghèo hèn. Chúa Giêsu hạ sinh ,
từ những người tầm thường cho đến những Đạo sĩ thông thái đều kêu mời đến thờ Đấng
Cứu Thế. Đúng như tiên tri Isaia đã
tiên báo Chúa Giêsu đến để:
-
Để
đem Tin Mừng cho người nghèo khó
-
Là
ánh sáng cho hết mọi dân tộc ( Is
42,9;49,6 )
Cuộc đời của Chúa Giêsu sống
tại trần gian được chia làm 3 thời kì:
-
Từ
1- 30 tuổi, Chúa Giê Su sống ẩn dật tại Nadarét miền Giuđê
-
30
tuổi Ngài đi rao giảng Tin Mừng Cứu Độ
-
33
tuổi Ngài chịu chết trên cây Thập Giá thời quan phong Xiophilato.
Trong
thời gian Ngài sống ẩn dật tại Nadarét:
Ngài đã vâng phục Cha và Mẹ Người. Sống như một người bình dân, lao động vất vả
để kiếm sống. Ngài đã rất chăm chú học Lời Chúa, thể hiện ở chỗ khi Cha và Mẹ người
dẫn lên đền Thờ, thì Ngài không về luôn cùng Cha và Mẹ người mà ở lại nghe các Thầy
Lêvi giảng dậy trong hội Đường.
Băt đầu cuộc đời công khia của mình. Ngài đã đến sông Giodan
chịu phép rửa của ông Gioan. Nhưng
ông Gioan không dán rửa cho Người và
ông nói “ Ngài là Đấng quền năng, sao con có thể rửa cho Ngài, Ngài đến sau tôi
và quền bính hơn tôi, tôi không đáng sách dép cho Ngai, Nhưng Ngài nói bây giờ
cứ vậy đi ”
Chỉ có Đức Giêsu là người
duy nhất đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì vậy chỉ có Đức Giêsu là Đấng Cứu
Độ duy nhất, là Đấng Trung Gian duy nhất và hoàn hảo có thể đem ơn cứu độ cho
loài người. Như vậy chân lý cơ bản liên quan đến sự cứu độ của mỗi cá nhân
chính là sự hiệp nhất với Đức Giêsu để được cứu độ. Đức Giêsu đã hoàn tất việc cứu độ, nhưng ơn Cứu độ của mỗi người
lại tuỳ thuộc vào việc đón nhận Đức Giêsu của từng người. Ngay từ buổi đầu,
Giáo Hội sơ khai đã tuyên xưng niềm tin này :“Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không
có một Danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh
đó mà được cứu độ.” (Cv 4,12)
Chỉ có một mình Chúa Giêsu mới có thể chiến thắng tội
lỗi và sự chết, vì vậy để có thể thông phần ơn cứu độ, con người phải hiệp
nhất với Chúa Giêsu. Các phương thế giúp
con người thông phần ơn cứu độ: đức tin,
đức cậy, đức mến, các bí tích, nhất là Rửa tội và Thánh Thể. Sự hiệp nhất
của mỗi người chúng ta với Chúa Giêsu qui tụ chúng ta nên cộng đoàn Giáo Hội.
Thánh Kinh đã dùng nhiều hình ảnh để diễn tả Giáo Hội: Cây nho, Đền thờ, Thân
mình, Hiền thê.Giáo Hội cũng hiệp nhất với Chúa Giêsu khi tiếp tục sứ vụ của
Ngài: Tư Tế, ngôn Sứ và Vương Đế.
Bắt đầu tại Giêrusalem Trong cộng đoàn tiên khởi này, đứng đầu
là thánh Phêrô và các Tông đồ. Khi
số Tín hữu gia tăng, các tông đồ tuyển chọn thêm những người cộng tác với các Ngài
để phục vụ bàn thờ và phục vụ người nghèo trong Giáo Hội. Họ được gọi là các tá viên, bây giờ Giáo Hội gọi là
các phó tế. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần, các phó tế hoạt động rất hiệu quả (x. Cv 6-8). Ông Stêphanô, là một trong
bảy phó tế Do Thái gốc Hy Lạp, được tuyển chọn để giúp việc
cho các Tông đồ. Với sự xuất hiện của ông và những đồng bào Do Thái gốc Hy Lạp, cộng đoàn những người theo Đức Kitô bắt đầu phát triển ra
khỏi phạm vi của Do Thái Giáo và trung tâm Do Thái Giáo là Giêrusalem, lòng tin vào Đức Giêsu Kitô được truyền bá đi khắp nơi,
đến với những người không phải là Do Thái.
Cho đến tận cùng trái đất Giáo Hội
mở rộng cửa đón nhận mọi người không phân biệt chủng tộc, màu da. Thánh Phaolô là người góp phần quan trọng nhất vào
việc cắt đứt dây ràng buộc giữa Kitô giáo và Do Thái giáo, mở rộng con đường
cho muôn dân đến với Đức Kitô và cho Giáo Hội đến với muôn dân. Công Đồng không
buộc các Kitô hữu phải giữ tập tục của đạo Do Thái nữa. Như vậy, từ nay Giáo
Hội Chúa Kitô mở rộng cửa cho mọi người.
Kitô giáo là cùng đích của Do Thái giáo. Vì vậy các Kitô hữu phải kính trọng và
thân thiện với Do Thái giáo.
Giáo Hội hướng về cánh chung Đức Giêsu Kitô đã lên trời, Giáo Hội
tiếp tục công trình của Ngài cho đến ngày Ngài trở lại để phán xét muôn loài.
Đó là ngày hoàn tất lịch sử cứu độ, ngày tiêu diệt vĩnh viễn tội lỗi và sự
chết. Thiên Chúa sẽ đổi mới mọi sự : xác loài người ta sẽ sống lại vinh quang,
muôn loài muôn vật được giải thoát khỏi cảnh hư nát.
Đó
là toàn bộ công trình cứu độ của Thiên Chúa, từ khi sinh ra cho đến lúc Ngài
trút hơi thở cuối cùng trên Thánh Gía. Cả con người Ngài là một tình yêu bao la
rộng lớn, Ngài luôn hướng đến con người và làm cho họ được trở về với tình yêu
bao la của Thiên Chúa. Con người có tội lỗi nhưng Ngài không bỏ rơi con người
để con người chìm ngập trong tội. Thiên Chúa đã dùng cả con người của Ngài để
đem lại phần tốt nhất cho con người, để con người nhìn vào đó để biết được tình
yêu rộng lớn mà Ngài đã dành cho nhân loại ta.
Ant Công Chính